Tiểu luận Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và hướng hoàn thiện pháp luật

MỤC LỤC

A. Lời mở đầu. 1

B. Nội dung. 2

I. Pháp luật chung về bảo hiểm tiền gửi. 2

1. Khái niệm Bảo hiểm tiền gửi. 2

2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi. 2

II. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại. 3

1. Các ngân hàng thương mại tham gia Bảo hiểm tiền gửi. 3

2. Xác định phạm vi tiền gửi được bảo hiểm. 5

3. Thực tiễn và đánh giá bảo hiểm đối với tiền gửi ngoại tệ. 6

4. Quy định về người được BHTG. 9

5. Quy định mức phí BHTG đồng nhất không còn phù hợp. 11

6. Quy định về hạn mức BHTG chưa được điều chỉnh kip thời và chưa tạo ra sự linh động để đối phó với các trường hợp khủng hoảng tài chính. 13

7. Quy định về tiếp nhận, xử lý các tổ chức tham gia BHTG phá sản,giải thể. 16

III. Hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. 17

1. Không nên loại trừ khoản tiền gửi để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền ra khỏi phạm vi tiền gửi được bảo hiểm. 17

2. Cần mở rộng đối tượng tham gia BTHG 18

3. Cần tiếp tục quy định không bảo hiểm đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để phục vụ cho chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia. 18

4. Cần quy định chỉ bảo hiểm cho người gửi tiền là cá nhân. 18

5. Cần có quy định phí BHTG dựa trên mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. 19

6. Cần điều chỉnh hạn mức BHTG phù hợp với điều kiện hiện nay và có quy định dự liệu cho trường hợp khủng hoảng tài chính. 19

C. Kết luận. 20

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2611 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và hướng hoàn thiện pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc". Qua hơn mười năm hoạt động, cho đến nay, BHTG Việt Nam đã thực hiện bảo vệ quyền lợi cho hàng chục triệu người gửi tiền tại hơn 1.000 tổ chức tín dụng và số lượng tổ chức tham gia BHTG đang ngày một tăng. Pháp luật Việt Nam quy định các tổ chức nhận tiền gửi bắt buộc phải tham gia BHTG, chính vì lẽ đó hầu hết các ngân hàng thương mại đều tham gia vào bảo hiểm tiền gửi, trong đó có cả các chi nhánh của ngân hàng nước ngoài cũng tham gia BHTGVN. Cùng với các cơ quan giám sát tài chính khác trong hệ thống các cơ quan đảm bảo an toàn tài chính quốc gia, BHTG đóng vai trò quan trọng thực hiện việc bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng. Theo báo cáo thường niên của BHTG Việt Nam, tính đến cuối năm 2008, BHTG Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 1,077 tổ chức nhận tiền gửi, bao gồm 5 ngân hàng thương mại quốc doanh, 34 ngân hàng thương mại cổ phần, 32 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng liên doanh, 10 TCTD phi ngân hàng, QTDND Trung ương và 990 QTDND cơ sở. Các tổ chức này đều được cấp giấy Chứng nhận BHTG. Những số liệu này không chỉ cho thấy ý thức tuân thủ các quy định pháp luật mà quan trọng hơn là sự tin cậy và mong muốn được hưởng lợi ích từ BHTGVN của các ngân hàng thương mại. Thông qua việc tham gia BHTG, BHTG Việt Nam kịp thời đưa ra những kiến nghị và cảnh báo giúp các ngân hàng thương mại tham gia BHTG khắc phục các sai phạm và có biện pháp để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thông qua thực hiện hoạt động giám sát sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Trong quý 4/2008, có 81/82 ngân hàng tham gia bảo hiểm được giám sát (ngoại trừ Ngân hàng Sumitomo chi nhánh Hà Nội). Có thể thấy, trong những năm qua BHTG Việt Nam từng bước cải tiến và áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong việc kiểm tra, giám sát đối với tổ chức tham gia BHTG theo hướng giám sát mức độ rủi ro của các ngân hàng thương mại. Xác định phạm vi tiền gửi được bảo hiểm. Xác định phạm vi tiền gửi được bảo hiểm là một trong những nội dung quan trọng của pháp luật BHTG, là cơ sở để tính phí bảo hiểm đồng thời cũng là cơ sở để BHTG Việt Nam tiến hành chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền. Việc pháp luật Việt Nam xác định phạm vi tiền gửi thông qua việc loại trừ một số khoản tiền gửi không được bảo hiểm sẽ thuận lợi cho việc triển khai hoạt động BHTG trong giai đoạn hoạt động ngân hàng đang phát triển có thể xuất hiện nhiều hình thức huy động vốn mới chưa thể định danh tại thời điểm quy định về tiền gửi được bảo hiểm. Theo quy định tại Mục I - Thông tư 03/2006/TT-NHNN thì các khoản tiền không được bảo hiểm bao gồm: a) Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó; b) Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó; c) Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền; d) Tiền mua giấy tờ có giá vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành. Ta có thể thấy, việc loại trừ khỏi phạm vi bảo hiểm khoản tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền là chưa hợp lý. Các khoản tiền như các khoản tiền gửi ký quỹ, tài khoản đảm bảo thanh toán sec…, về nguyên tắc vẫn thuộc quyền sở hữu của người gửi tiền. Khi tổ chức tham gia BHTG mất khả năng thanh toán thì người chịu thiệt hại là người gửi tiền. Trong trường hợp này, trước bên có quyền người gửi tiền không hề được miễn việc thực hiện nghĩa vụ. Thực tiễn và đánh giá bảo hiểm đối với tiền gửi ngoại tệ. Pháp luật Việt Nam có quy định “Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam” ( Nghị đinh 89. Nghị định 109, Thông tư 03 ). Như vậy, tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam, bao gồm các loại tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn của cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia BHTG, theo pháp luật hiện nay, hoạt động gửi tiền bằng đồng ngoại tế vẫn chưa thuộc đối tượng được bảo hiểm. Đều này sẽ là phù hợp nếu câc giao dịch tại các tổ chức tín dụng đều được thực hiện bằng đồng Việt Nam và số ngoại tệ được giao dịch là không đáng kể. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy, Việt Nam là một quốc gia có tỷ lệ đô la hóa cao, việc người dân thực hiện các giao dịch không chỉ tại các ngân hàng mà đơn giản là trong cuộc sống thường nhật cũng không phải là điều xa lạ. Theo số liệu Thống kê Số liệu của tổng cục thống kê năm 2005 . Tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/ tổng số vốn huy động của hệ thống ngân hàng (%) Như vậy, để bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền có nên chăng quy định tiền gửi bằng loại tiền nào cũng cần được bảo hiểm ? BHTG đối với cả ngoại tệ sẽ tạo cơ hội cho các ngân hàng thu hút được nguồn ngoại tệ lớn trong công chúng, khuyến khích lượng kiều hối từ nước ngoài gửi về Việt Nam cho đầu tư và phát triển đất nước. Nếu chỉ bảo hiểm đồng Việt Nam sẽ không khuyến khích được người có ngoại tệ gửi tiền vào ngân hàng. Liệu chúng ta có thể hiểu việc chỉ bảo hiểm đối với đồng Việt Nam là một sự phân biệt đối xử của pháp luật đối với ngoại tệ hay không. Chính sách của Nhà nước là tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, cho phép các ngân hàng nhận tiền gửi bằng ngoại tệ, vì vậy, việc xem xét việc BHTG cho đồng ngoại tệ là điều nên làm. Tuy nhiên việc ủng hộ quan điểm không bảo hiểm đối với tiền gửi ngoại tệ xuất phát từ những lý do sau : Thứ nhất, chính sách quản lý ngoại hối của bất kì quốc gia nào cũng đều hướng đến mục tiêu trên lãnh thổ quốc gia chỉ sử dụng đồng nội tệ của quốc gia đó. Chính sách ngoại hối của Việt Nam cũng không nằm ngoài mực tiêu đó, nhằm chống tình trạng đô la hóa. Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam đang diễn ra khá nhanh ở Việt Nam. Tình trạng đô la hóa làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm giảm vị thế độc tôn của đồng tiền quốc gia, khiến cho thị trường ngoại hối phức tạp và khó quản lý, làm cho các ngân hàng khó mua được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán và ngân hàng Trung ương cũng khó tăng được dự trữ ngoại hối. Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005, tại Điều 3 có quy định : “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trí, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối…” Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg trong đó khẳng định “Áp dụng các giải pháp kinh tế để chuyển dần quan hệ huy động – cho vay trong nước bằng ngoại tệ của các TCTD sang quan hệ mua – bán ngoại tệ”. Như vậy, chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam ngoài việc cấm sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam, còn không khuyến khích người dân tích trữ ngoại tệ (kể cả việc gửi vào ngân hàng), mà khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho ngân hàng. Đây được coi là lý do quan trọng nhất cho thất không nên quy định bảo hiểm cho tiền gửi bằng ngoại tệ. Việc làm này nhằm hướng tới việc trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, không khuyên khích người dân sở hữu ngoại tệ, góp phần nâng cao chủ quyền quốc gia về tiền tệ, hạn chế tình trạng đô la hóa. Thứ hai, nếu quy định bảo hiểm cho tiền gửi ngoại tệ sẽ nảy sinh một loạt vấn đề phức tạp như xác định mức phí bảo hiểm phải nộp bằng ngoại tệ hay nội tệ, quy định hạn mực BHTG bằng ngoại tệ hay nội tệ và chi trả BHTG bằng ngoại tệ hay nội tệ. Nếu thực hiện chi trả bằng ngoại tệ có thể dẫn đến khó khăn cho tổ chức BHTG trong việc bảo đảm nguồn vốn ngoại tệ cho chi trả. Nếu quy định nộp phí, chỉ trả bằng đồng nội tệ thì việc xác định tỷ giá sẽ như thế nào và tỷ giá tại thời điểm nào ? Thứ ba, theo thông lệ quốc tế ở hầu hết các nước như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia… đều chỉ bảo hiểm cho đồng nội tệ. Ví dụ như ở Canada không chi trả bảo hiểm cho “các khoản tiền gửi không được thanh toán trong Canada hoặc không bằng đồng tiền Canada”. Quy định về người được BHTG. Nghị định 89/1999 đã quy định người được BHTG là cá nhân gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG. Tuy nhiên, khi ban hành Nghị định 109 sửa đổi bổ sung Nghị định 89 đã mở rộng người được BHTG : ngoài các cá nhân còn có người gửi tiền là hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Mục đích của nhà làm luật trong việc sửa đổi này thực chất là bổ sung người được BHTG đối với các chủ thể không phải là cá nhân những cũng không phải là pháp nhân ( tại thời điểm ra Nghị định 109 khi luật Doanh nghiệp năm 2005 chưa được ban hành, khi đó công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân ), các chủ thể này theo các nhà làm luật có tính chất tương tự như cá nhân. Tuy nhiên, quy định này đã nảy sinh một số bất cấp và không thống nhất với các quy định khác của pháp luật ngân hàng. Thứ nhất, Nghị định 109 mở rộng chủ thể được BHTG đối với một số loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Mục đích của nhà làm luật là bổ sung người được BHTG đối với các chủ thể không có tư cách pháp nhân, tuy nhiên theo quy định tại Khoản 2 – Điều 130 – Luật Doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Theo nguyên tắc công bằng trong kinh doanh, quy định trên lại là một sự phân biệt đối xử với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần. Thứ hai, việc mở rộng các chủ thể BHTG tại Nghị định 109 gây nên tình trạng không thống nhất với các văn bản pháp luật khác liên quan đến nhận tiền gửi như Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN2 ngày 21/11/2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại NHNN và TCTD, Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế về tiền gửi tiết kiệm. Theo Quy chế mở và sử dụng tài khoản, TCTD mở các loại tài khỏa tiền gửi sau Tài khoản tiền gửi của cá nhân Tài khoản tiền gửi của đồng chủ tài khoản ( là tài khoản có ít nhất hai người trở lên cùng đứng tên mở tài khoản, đồng chủ tài khoản có thể là cá nhân hoặc tổ chức ) Tài khoản tiền gửi của tổ chức. Như vậy, chủ thể mở tài khoản tiền gửi, gửi tiền tiết kiệm hoặc là đứng tên cá nhân hoặc đứng tên đồng chủ sở hữu hoặc đứng tên tổ chức. Không có chủ thể mở tài khoản tiền gửi hoặc gửi tiền tiết kiệm với tư cách hộ gia đình, điều đó cho thấy sự không thực tế trong việc đặt ra vấn đề BHTG với hộ gia đình. Như vậy, có thể thấy việc mở rộng chủ thể được BHTG tại Nghị định 109 so với Nghị định 89 còn nhiều điểm bất hợp lý và không phù hợp với thực tế. Về vấn đề này, thiết nghĩ nên giữ nguyên quy định tại Nghị đinh 89, theo đó chủ thể được bảo hiểm tiền gửi là Cá nhân. Vấn đề không nên quy định bảo hiểm đối với người gửi tiền là các tổ chức với những lý do sau : Thứ nhất, BHTG cần hướng tới những người gửi tiền nhỏ, những người gửi tiền có thu nhập thấp, ít có khả năng tiếp cận thông tin, không có điều kiện đánh giá và lựa chọn tổ chức nhận tiền gửi an toàn, lành mạnh. Những người gửi tiền này do sự hạn chế về hiểu biết và thông tin nên thường có những phản ứng thái quá, rút tiền hàng loạt tại ngân hàng khi có các tin đồn thất thiệt, có thể làm ngân hàng đổ vỡ. Thời gian trước (cuối năm 2003) xảy ra sự kiện tin đồn về Tổng giám đốc ACB bỏ trốn gây nên một tâm lý hoang mang, hốt hoảng ở nhiều khách hàng có quan hệ giao dịch với ACB. Dẫn đến hậu quả rất đông khách hàng ồ ạt kéo đến rút tiền gửi. Tuy nhiên đó chỉ là tin đồn. Lượng người rút tiền chỉ giảm xuống khi “nạn nhân” chính của tin đồn cùng thống đốc Ngân hàng trung ương xuất hiện với lời hứa bảo toàn tài sản cho khách hàng. Mặt khác, đối với người gửi tiền nhỏ, người gửi tiền có thu nhập thấp thông thường khoản tiền gửi có vai trò rất quan trọng trong đời sống của họ. Trong khi đó, các tổ chức là những người có khả năng thu thập thông tin, đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi, từ đó có thể lực chọn tổ chức nhận tiền gửi an toàn, lành mạnh để tránh rủi ro cho mình. Thứ hai, việc không BHTG cho các tổ chức sẽ kích thích các tổ chức tìm hiểu, lực chọn tổ chức nhận tiền gửi an toàn, và ngược lại tạo động lực để các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động lành mạnh để được sự tín nhiệm và lựa chọn của các tổ chức góp phần giảm bớt rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng. Thứ ba, thông thường nguồn gửi tiền của các cá nhân là các nguồn gửi tiền tiết kiệm, có tính thời hạn, có sự ổn định nên là nguồn vốn chính để các ngân hàng thực hiện việc cho vay phục vụ sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế, nguồn tiền gửi tiết kiệm từ các cá nhân có vai trò rất quan trọng đối với hệ thống ngân hàng, những người gửi tiền cá nhân này cần được bảo vệ, khuyến khích họ gửi tiền vào ngân hàng. Thứ tư, vì hạn mức BHTG bồi thường so với số tiền các tổ chức gửi quá nhỏ, việc quy định không BHTG đối với họ thường cũng không ảnh hưởng đến việc họ gửi tiền vào ngân hàng hay không. Mặt khác, việc gửi tiền tại ngân hàng là lựa chọn bắt buộc của các tổ chức ,vì nhu cầu giao dịch, thanh toán với đối tác và sự an toàn tài sản hoặc trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật ( như để được hoàn trả thuế giá trị gia tăng, trả lương cho người lao động…). Thứ năm, theo quy định, phí BHTG được tính trên toàn bộ số dư tiền gửi của các loại tiền gửi và được hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng. Nếu tiền gửi của tổ chức được bảo hiểm thì phí BHTG mà các tổ chức tham gia BHTG phải nộp sẽ lớn hơn rất nhiều nhiều vì tiền gửi của tổ chức thường có số lượng lớn. Từ đó làm tăng chi phí hoạt động cho các tổ chức tham gia BHTG, dẫn đến tăng lãi suất cho vay, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các doanh nghiệp. Trong khi đó, các tổ chức nếu được nhận chi trả BHTG cũng không đáng kể vì hạn mức BHTG quá nhỏ so với số tiền mà họ gửi. Như vậy, nhìn tổng thể, việc quy định không BHTG cho tổ chức mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế hơn việc quy định BHTG cho loại chủ thể này. Quy định mức phí BHTG đồng nhất không còn phù hợp. Phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG có nghĩa vụ nộp cho tổ chức BHTG để được bảo hiểm cho tiền gửi của khách hàng. Theo Nghị định 89, Nghị đinh 109 và Thông tư 03, tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho tổ chức BHTG một khoản phí bằng 0,15%/năm tính trên toàn bộ số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Như vậy, khi thành lập BHTG đến nay, chúng ta thực hiện phí đồng hạng (cùng một tỷ lệ phí ) đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG. ( Nguồn : BHTG Việt Nam – – Tính đến quý I năm 2009) Quy định phí đồng hạng chỉ phù hợp trong thời gian vừa qua khi lần đầu tiên Chính phủ thành lập một tổ chức BHTG của Chính phủ để thực hiện bảo hiểm một cách công khai, minh bạch cho người dân. Trong thời gian đầu mới thành lập cần sự đơn giản trong việc tính phí để BHTG đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, quy định này có hạn chế là không phân biệt tổ chức tham gia BHTG có hoạt động an toàn hay không an toàn, rủi ro nhiều hay ít mà tất cả đều được áp dụng chung một tỷ lệ phí. Từ đó, không tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG hoạt động an toàn để có thể được hưởng tỷ lệ phí BHTG thấp hơn. Quy định mức phí đồng hạng cũng không có tác dụng giảm rủi ro đạo đức (là rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác) trong hoạt động tiền gửi. Ngược lại, cách tính phí BHTG theo mức độ rủi ro (tỷ lệ phí phụ thuộc vào mức độ rủi ro của tổ chức tham gia BHTG) sẽ khắc phục được những hạn chế nói trên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc trong hoạt động của bảo hiểm là rủi ro cao thì mức phí phải nộp cao, rủi ro thấp thì mức phí phải nộp thấp, tạo sự công bằng hơn trong hoạt động BHTG. Trên cơ sở xếp hạng đối với các tổ chức tham gia BHTG sẽ áp dụng mức phí BHTG khác nhau đối với các tổ chức này. Tuy nhiên, ở Việt Nam do hệ thống các ngân hàng chưa có những phát triển ổn định, cơ quan quản lý nhà nước chưa có những đánh giá, phân loại, định mức tín nhiệm chuẩn đối với các ngân hàng, các tổ chức hoạt động độc lập trong lĩnh vực định mức tín nhiệm cũng chưa được hình thành. Chính vì lẽ đó nên điều cần quan tâm nhất khi áp dụng phí BHTG theo mức độ rủi ro là thực hiện việc đánh giá, xếp hạng đối với các tổ chức tham gia BHTG. Việc xếp hạng các tổ chức tham gia BHTG để tính phí BHTG theo mức độ rủi ro tại các nước trên thế giới đều dựa trên tiêu chuẩn CAMEL. Cũng có nhiều nước sử dụng kết quả đánh giá, xếp hạng của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng để tính phí phân biệt đối với các tổ chức tham gia BHTG. Một số khác lại sử dụng kết quả đánh giá, xếp hạng của công ty đánh giá định mức tín nhiệm độc lập, một số nước tổ chức BHTG trực tiếp đánh giá, xếp hạng và Ở Việt Nam, cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (thuộc NHNN) đã thực hiện việc đánh giá, xếp loại các tổ chức tín dụng hàng năm theo tiêu chuẩn CAMEL (theo các Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ngày 12/3/2008 và Quyết định số 14/2007/QĐ-NHNN ngày 09/4/2004 của Thống đốc NHNN). Do đó, nên sử dụng kết quả đánh giá, xếp hạng của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng để tính phí đối với các tổ chức tham gia BHTG khi triển khai tính phí BHTG theo mức độ rủi ro, để giảm chi phí. Quy định về hạn mức BHTG chưa được điều chỉnh kip thời và chưa tạo ra sự linh động để đối phó với các trường hợp khủng hoảng tài chính. Hạn mức BHTG là số tiền tối đa mà tổ chức BHTG chi trả cho một người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. BHTG Việt Nam được Nhà nước thành lập và cấp vốn điều lệ ban đầu là 1,000 tỉ đồng, đến nay là 5,000 tỉ đồng. Việc chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền là một trong những hoạt động vô cùng quan trọng của BHTG Việt Nam. Đây là biện pháp cuối cùng những vô cùng có ýnghĩa đối với tổ chức tham gia BHTG hoạt động không lành mạnh, dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Việc chi trả kịp thời tiền gửi được bảo hiểm tại các Quỹ tín dụng (QTD) này đã thể hiện được vai trò của DIV trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, tạo lập được lòng tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng, ngăn chặn được sự đổ vỡ dây truyền trong hệ thống QTDND. Đồng thời góp phần vào việc củng cố, chấn chỉnh hệ thống QTD để hệ thống này phát triển an toàn, ổn định theo tinh thần chỉ thị số 57/CT-TW của Bộ chính trị và Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tính đến cuối tháng 6-2009, BHTG Việt Nam đã thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho hơn 1.500 người gửi tiền tại hơn 36 quỹ tín dụng nhân dân với tổng số tiền gần 19 tỷ đồng. Việc trực tiếp chi trả tiền gửi được bảo hiểm tạo được niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, tránh hiện tượng người dân đổ xô đi rút tiền, có thể gây ra sự đổ vỡ dây chuyền Tài liệu của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – . Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là hạn mức chi trả của BHTG. Hạn mức BHTG là vấn đề rất nhạy cảm, bởi vì nó có thể ảnh hưởng tới tâm lý người gửi tiền, đồng thời cũng ảnh hưởng đến hành vi ứng xử của các bên trong quan hệ BHTG. Hạn mức BHTG có mối quan hệ với mức độ rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng. Hạn mức BHTG càng cao thì rủi ro đạo đức càng cao, biểu hiện ở chỗ người gửi tiền do yên tâm rằng khoản tiền của họ được bảo hiểm nên không có động lực tìm hiểm, đánh giá và lực chọn tổ chức nhận tiền gửi an toàn, còn tổ chức nhận tiền gửi do huy động được tiền gửi dễ dàng nên không chú trọng các biện pháp bảo đảm an toàn và có xu hướng thực hiện các hoạt động cho vay mạo hiểm hơn. Rủi ro đạo đức xuất hiện cao nhất trong hệ thống BHTG chi trả không giới hạn (không có hạn mức BHTG), nên việc quy định bảo hiểm không giới hạn chỉ cần thiết và phù hợp khi hệ thống ngân hàng của quốc gia đứng trước các cuộc khủng hoảng tài chính và chỉ nên duy trì trong một thời gian ngắn. Hạn mức BTHG thấp sẽ đặt người gửi tiền trước những rủi ro thiệt hạn trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi đổ vỡ, do đó tạo động lực cho họ lực chọn tổ chức nhận tiền gửi có độ an toàn cao hơn, chính vì lẽ đó, đứng trên phương diện rủi ro đạo đức thì hạn mức bảo hiểm càng thấp càng tốt. Tuy nhiên, hạn mức BHTG quá thấp không có tác dụng củng cố niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, không hạn chế được nguy cơ rút tiền hàng loạt của người gửi tiền chỉ vì những tin đồn thất thiệt. Mặc khác, hạn mức thấp sẽ không có tác dụng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi đổ vỡ (bất kỳ tổ chức nhận tiền gửi nào cũng có thể phá sản trong cơ chế thị trường), vì vậy không có tác dụng duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Do đó, xác định hạn mức BHTG phải đủ thấp để khuyến khích sự thận trọng của người gửi tiền, đồng thời cũng phải đủ cao để củng cố niềm tin của người gửi tiền, ngăn chặn nguy cơ rút tiền hàng loạt của người gửi tiền tại ngân hàng, từ đó tăng cường sự giám sát và tạo áp lực để tổ chức nhận tiền gửi hoạt động an toàn. Cần xem xét hạn mức chi trả hiện nay của BHTG, khi nó đã được nâng lên thành 50 triệu đồng (theo quy định tại Nghị định 109/2005/NĐ-CP). Tại thời điểm năm 2005 khi ban hành Nghị định 109 hạn mức này đáp ứng được các yêu cầu trong việc xây dựng hạn mức BHTG như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, hạn mức BHTG cần được điều chỉnh khi GDP bình quân đầu người tăng, mức độ lạm phát tăng và cơ cấu tiền gửi của người dân tại ngân hàng có sự thay đổi. Thông thường hạn mức BHTG ở các quốc gia khác trên thế giới được xác định trên cơ sở GDP bình quân đầu người/năm (ngoài ra còn căn cứ vào nhiều yếu tố khác). Theo thống kê, tỉ lệ giữa hạn mức BHTG và GDP bình quân đầu người trung bình trên thế giới là 3 lần, trung bình ở Châu Á là 4 lần. Ở Việt Nam từ năm 2005 đến 2008, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP đã tăng từ 10.098.000 đồng/người/năm lên 17.141.000đồng/người/năm (tăng 69,7%), tổng mức tăng chỉ số giá tiêu dùng là 47,5%. Cùng với thực tế, số tiền nhàn rỗi của người dân gửi vào hệ thống ngân hàng ngày càng tăng, việc duy trì hạn mức BHTG như hiện nay không còn hợp lý Báo cáo thường niên của Bào hiểm tiền gửi Việt Nam 2008 – . Mặt khác, hiện tại pháp luật BHTG Việt Nam chưa có quy định dự phòng cho trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính, khi có nguy cơ đổ vỡ hàng loạt các ngân hàng. Trong khi đó, quy mô tiền gửi không ngừng tăng cao, đặc biệt là khối lượng vốn huy động của các ngân hàng thương mại đã tăng rất lớn, mỗi năm tăng bình quân 35%. Mức chi trả thấp sẽ làm giảm hiệu quả chính sách BHTG. Theo khuyến nghị của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), pháp luật các nước phải dự liệu cho trường hợp ngoại lệ như khi xảy ra khủng hoảng tài chính và cho phép tăng hạn mức BHTG hoặc có thể áp dụng bảo hiểm toàn bộ tiền gửi (không có hạn mức BHTG) để kịp thời đối phó với cuộc khủng hoảng, bảo đảm an toàn hệ thống. Trong trường hợp này, cần phải quy định ngoài nguồn vốn của BHTG, Chính phủ, Ngân hàng Trung ương sẽ hỗ trợ chi trả BHTG khi cần thiết. Đồng thời để hạn chế rủi ro đạo đức, cần quy định việc áp dụng biện pháp tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi hoặc áp dụng biện pháp bảo hiểm toàn bộ tiền gửi phải có thời hạn cụ thể. Thực tế trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 vừa qua, các nước đã sử dụng biện pháp tăng hạn mức BHTG hoặc bảo hiểm toàn bộ tiền gửi của người dân để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. Ví dụ : Chính phủ Đức tuyên bố bảo hiểm toàn bộ tiền gửi của người dân tại ngân hàng; Mỹ đã nâng hạn mức BHTG từ 100.000USD lên 250.000USD, hạn mức này duy trì đến hết năm 2009. Quy định về tiếp nhận, xử lý các tổ chức tham gia BHTG phá sản,giải thể. Thực tế ở nước ta, những năm qua đã xảy ra việc giải thể, thanh lý một số ngân hàng thương mại cổ phần, Quỹ tín dụng cơ sở, tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng khi thực hiện còn lúng túng, chưa bài bản, qua nhiều năm vẫn chưa làm thủ tục thanh lý được hết các các tổ chức đã giải thể. Trong năm 2005, BHTG Việt Nam đã trực tiếp theo dõi việc Thanh lý tài sản của 33 Quỹ tín dụng nhân dân bị giải thể trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố. Tổng số thu thanh lý năm 2005 đạt 1.974 triệu đồng, tổng chi thanh lý năm 2005 là 1.953 triệu đồng, trong đó thanh toán cho BHTG Việt Nam là 1.348 triệu đồng Báo cáo thường niên năm 2005 của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. . Theo số liệu thống kê năm 2007, BTHG Việt Nam đã tham gia thanh lý 34 quỹ tín dụng bị giải thể, thu hồi tổng số tiền là 973,8 triệu đồng, tổng số thanh toán các khoản phải trả là 962,18 triệu đồng, trong đó hoàn trả cho DIV là 547 triệu đồng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lúng túng khi thực hiện phá sản, thanh lý tài sản của các tổ chức nhận tiền gửi là chưa có quy định về trình tự thủ tục phá sản, giải thể, thanh lý các TCTD và có một tổ chức chuyên trách về vấn đề này. Hiện tại ở nước ta, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ban hành ngày 18 tháng 01 năm 2010 quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các tổ chức tín dụng trong đó bao gồm cả các ngân hàng thương mại tạo cơ sở chắc chắn về xử lý ngân hàng đổ vỡ do phá sản hoặc giải thể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và hướng hoàn thiện pháp luật (Luật 2010).doc
Tài liệu liên quan