MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 3
I. Khái quát chung 5
1. Gi ới thiệu về luật biển quốc tế 5
2. Khái quát chung về nguyên tắc tự do biển cả và nguyên tắc đất thống trị biển 6
II. Vai trò của nguyên tắc tự do biển cả và nguyên tắc đất thống trị biển 13
1. Nguyên tắc tự do biển cả 13
1.1. Vai trò 13
1.2. Đánh giá 26
2. Nguyên tắc đất thống trị biển 27
2.1. Vai trò 27
2.2. Đánh giá 33
3. Mối quan hẽ giữa hai nguyên tắc 33
III. Thực tiễn của việc áp dụng nguyên tắc tự do biển cả và nguyên tắc đất thống trị biển 34
1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tự do biển cả 34
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc đất thống trị biển 38
IV. Kết luận 48
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6224 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá vai trò của nguyên tắc tự do biển cả và đất thống trị biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo cho tàu thuyền nước ngoài thực hiện những quyền tự do trên.
Đặc biệt Công ước 1982 đã dành cho các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý được quyền tham gia vào việc khai thác số cá dư trong các vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển cùng phân khu vực hoặc khu vực. Tuy nhiên quyền này chỉ được thực hiện khi quốc gia ven biển không có khả năng khai thác sản lượng cá và cho phép nước ngoài vào đánh bắt số cá thừa theo những điều kiện được các bên hữu quan thực hiện.
Như vậy,trong vùng đặc quyền kinh tế cũng tồn tại quyền khai thác tài nguyên sinh vật của các quốc gia khác (là một quyền trong nguyên tắc tự do biển), nhưng quyền này chỉ mang tính hạn chế vì nó phụ thuộc vào việc nước ven biển có công bố tồn tại một dư lượng tài nguyên sinh vật hay không, và phụ thuộc vào việc giữa nước ven biển với nước hữu quan có sự thỏa thuận về chia sẻ nguồn tài nguyên hay không.
Thẩm quyền tài phán của quốc gia đối với tàu thuyền mang quốc tịch nước mình khi hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ven biển tuân theo nguyên tắc “Luật nước treo quốc kỳ”, loại trừ quyền tài phán của quốc gia ven biển.
¯ Thềm lục địa
Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến mép ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi mép ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó có khoảng cách gần hơn (khoản 1 Điều 76 Công ước).
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với thềm lục địa là rất lớn, nên nguyên tắc tự do biển cả chỉ có một phần ảnh hưởng, thể hiện ở việc các quốc gia khác trên thềm lục địa có các quyền về tự do hàng hải; tự do bay; tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm song phải có sự thông báo trước với quốc gia ven biển.
Đối với biển cả và vùng:
Đây là hai vùng biển thể hiện đầy đủ và rõ ràng nhất nguyên tắc tự do biển cả.
¯ Biển cả.
Biển cả, theo Điều 86 – Công ước luật biển 1982 là: “…tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo”
Như đã đề cập ở trên thì chế độ pháp lý của biển cả tập trung chủ yếu trong nguyên tắc tự do biển cả, quyền tự do trên biển cả thể hiện trong nội dung của nguyên tắc tự do biển cả bao gồm:
* Tự do hàng hải:
Nội dung của quyền tự do hàng hải bao gồm các quyền liên quan đến việc tự do đi lại và thẩm quyền tài phán đối với tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả.
Trước hết, đó là việc cho phép xác định quyền tự do đi lại của tất cả các loại tàu thuyền của quốc gia trên khu vực biển cả ở bất kỳ khu vực nào mà họ muốn. Các tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả có địa vị pháp lý ngang bằng nhau và chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia mà tàu mang cờ. Như vậy, khi hoạt động trên biển cả, tàu thuyền chỉ tuân theo “ luật của nước mà tàu treo cờ”, theo đó, các quyền kiểm soát tàu thuộc về tàu chiến và tàu cảnh sát của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả, mà trách nhiệm hành chính hay hình sự rơi vào bất kỳ thành viên nào thuộc thủy thủ đoàn, thì chỉ có thể yêu cầu truy cứu trách nhiệm pháp lý các đương sự trước cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc cơ quan của quốc gia mà đương sự có hành vi vi phạm là công dân.
Tương xứng với thẩm quyền nên trên thì tất cả các quốc gia đều phải có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo hiểm đối với tàu thuyền của nước mình khi hoạt động trên biển cả, đồng thời phải gánh chịu mọi trách nhiệm do tàu thuyền của nước mình gây ra cho tàu thuyền của nước khác.
Riêng đối với tàu quân sự và tàu Nhà nước dùng cho hoạt động phi thương mại khi hoạt động trên biển cả được hưởng quyền bất khả xâm phạm và quyền miễn trừ tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác, ngoài quốc gia mà tàu mang quốc kỳ.
Đồng thời, trong vùng biển cả, bất kỳ quốc gia nào cũng phải có nghĩa vụ : ngăn ngừa và trừng trị tội cướp biển; ngăn ngừa và trừng trị tội buôn bán và vận chuyển nô lệ; đấu tranh chống các hành vi phát sóng bất hợp pháp; ngăn ngừa và trừng trị tội buôn bán ma túy và các chất kích thích; và có quyền truy đuổi. Đây chính là các ngoại lệ của nội dung tự do hàng hải. Ngoại lệ về quyền trấn áp phổ cập đối với tội cướp biển và ngoại lệ về quyền truy đuổi phát sinh từ hiệu lực của các quy phạm được công nhận chung của luật quốc tế. Đây là loại quy phạm có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia. Ngược lại, các ngoại lệ còn lại được quy định trong các điều ước quốc tế, chỉ có hiệu lực với các quốc gia thành viên điều ước. Mặt khác, các ngoại lệ trên không áp dụng với các tàu quân sự.
* Tự do hàng không
Nội dung của nguyên tắc là trong vùng trời quốc tế, các phương tiện bay của tất cả các quốc gia đều có quyền tự do hàng không, khi hoạt động ở vùng trời quốc tế, phương tiện bay chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia đăng tịch phương tiện bay. Trong thời gian bay trong không phận quốc tế, các phương tiện bay phải chấp hành và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định, các yêu cầu về an ninh hàng không được ghi nhận trong điều ước quốc tế về hàng không cũng như các văn bản do tổ chức hàng không quốc tế ban hành. Tất cả các quốc gia phải áp dụng các biện pháp an ninh an toàn hàng không cho các phương tiện bay của mình, tuân thủ nghiêm túc các quy định của luật hàng không quốc tế.
* Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm
Các quốc gia được quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm trong vùng biển cả. Quyền này được hiểu rộng hơn, là bao gồm cả việc bảo vệ và nghiêm cấm phá hoại dây cáp và ống dẫn ngầm được đặt dưới biển.Quốc gia đặt dây cáp và ống dẫn ngầm có nghĩa vụ phải đặc biệt quan tâm đến tình trạng của chúng đã được xây dựng ở dưới đáy biển, không được gây cản trở cho quá trình sửa chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm hiện có.
*Tự do đánh bắt hải sản
Quyền tự do đánh bắt hải sản được quy định tại điều 116 Công ước Luật Biển 1982
“Tất cả các quốc gia đều có quyền cho công dân của mình đánh bắt ở biển cả” và với những điều kiện nhất định được nêu trong Công ước như: Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công ước; Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia ven biển như đã được trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64 đến 67…
Như vậy các quốc gia đều được tự do đánh bắt cá trên biển cả nhưng có nghĩa vụ tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích của các quốc gia ven biển; áp dụng các biện pháp để bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả; hợp tác quốc tế trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật.
* Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác và quyền tự do nghiên cứu khoa học.
Theo quy định của nguyên tắc luật biển 1982, các quốc gia có biển cũng như không có biển đều có quyền tự do nghiên cứu khoa học, tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được luật quốc tế cho phép. Tuy nhiên, do việc vùng đặc quyền kinh tế được thành lập với chiều rộng 200 hải lý tình từ đường cơ sở và quyền của quốc gia ven biển trong thềm lục địa có chiều rộng tối thiểu là 200 hải lí và tối đa là 350 hải lí hoặc 100 hải lí tình từ đường đẳng sâu 2500m, theo đó tồn tại chế độ cho phép quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc xây dựng thiết bị, đảo nhân tạo và nghiên cứu khoa học nên đã hạn chế phần lớn phạm vi không gian của hai quyền tự do bổ sung này.
¯ Vùng
Theo Điều 1 Công ước 1982 “vùng” (zone) là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn thẩm quyền tài phán quốc gia”.Như vậy có thể hiểu vùng là toàn bộ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài ranh giới phía ngoài thềm lục địa của tất cả các quốc gia.
Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại (Điều 136 Công ước)
Nguyên tắc tự do biển cả một mặt đặt cơ sở để thiết lập trên Vùng quyền sở hữu quốc tế và loại bỏ sự chiếm hữu bất hợp pháp của một quốc gia đối với biển cả, mặt khác, xác định cơ chế kiểm soát quốc tế đối với việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển cả và vùng, nhằm hạn chế tình trạng sử dụng bừa bãi nguồn tài nguyên, ảnh hưởng tới môi trường biển.
Vùng không thuộc sự chiếm hữu của bất kỳ quốc gia nào; tất cả các quốc gia được phép sử dụng vùng vì mục đích hoà bình; tất cả các quốc gia được quyền sử dụng,quản lý, khai thác một cách công bằng trên vùng. Quản lý vùng có Cơ quan quyền lực đáy đại dương có trụ sở tại Jamaica, tổ chức điều hành của cơ quan gồm Hội nghị các nước thành viên và Hội đồng gồm 36 thành viên, trong đó 18 thành viên được phân bổ theo tiêu chuẩn địa lý (như hội đồng bảo an) và 18 thành viên được phân chia gồm 4 nước xuất khẩu nhiều nhất về quặng được khai thác; 4 nước sản xuất nhiều nhất; 4 nước nhập khẩu nhiều nhất; 6 nước còn lại đại diện cho các quyền lợi khác (Điều 161 Công ước).Dưới cơ quan quyền lực đáy đại dương có các xí nghiệp.
Đối với các vùng biển đặc thù:
¯Vùng nước quần đảo.
Vùng nước quần đảo là khái niệm gắn liền với quốc gia quần đảo. Quốc gia quẩn đảo là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều đảo hoặc có khi bởi một số hòn đảo khác. Quần đảo được hiểu là một tổng thể các đảo, bao gồm cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có mối liên quan gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, chính trị, kinh tế hay được coi như vậy về mặt lịch sử. ( Điều 46- Công ước).
Vùng nước quần đảo là vùng biển nằm bên trong của đường cơ sở quần đảo, dùng để tính chiều rộng lãnh hải và do quốc gia quần đảo ấn định. Muốn xác định được vùng nước quần đảo cần phải vạch được đường cơ sở quần đảo. Các điều kiện để vạch được đường cơ sở quần đảo quy định tại điều 47 – Công ước.
Vai trò của nguyên tắc tự do biển cả ảnh hưởng đối với vùng này được thể hiện qua các quy chế phá lý như:
- Các quốc gia láng giềng có quyền đánh bắt hải sản truyền thống cũng như các hoạt động chính đáng trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo, quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng các điều ước quốc tế hiện hành đã được kí kết với các quốc gia khác và thừa nhận (Xem điều 51 Công ước)
-Các quốc gia khác có quyền đặt các dây cáp ngầm và đi qua các vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo mà không đụng chạm đến bờ biển của quốc gia quần đảo ( xem Điều 51 Công ước)
-Tàu thuyền của quốc gia khác đều được hưởng quyền đi qua vô hại vùng nước quần đảo, cũng như quyền quá cảnh theo hành lang hàng hải tại vùng nước này.( xem Điều 52 Công ước)
Theo điều 53 Công ước 1982, quốc gia quần đảo phải xác định các hành lang hàng hải đảm bảo việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài một cách liên tục và nhanh chóng, không gặp trở ngại gì trong vùng nước quần đảo của mình. Nếu quốc gia quần đảo không xác lập các hành lang như vậy thì tàu thuyền có thể đi qua vùng nước quần đảo theo các lộ trình hàng hải đã được sử dụng thường xuyên trong lưu thông hàng hải quốc tế. Quyền quá cảnh có nội dung rộng hơn so với quyền đi qua vô hại, cụ thể quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ, tàu ngầm quân sự có thể đi qua ở tư thế chìm và phương tiện bay quan sự cũng như dân sự đều có thể sử dụng quyền này, có quyền bay qua vùng trời trên vùng nước quần đảo.
¯Eo biển quốc tế
Eo biển theo nghĩa thông thường là đường nối các vùng biển rộng lớn với nhau và có tính chất tự nhiên, không do con người tạo ra và có đặc điểm chung là tương đối hẹp. Eo biển dùng cho hàng hải quốc tế được hiểu là eo biển nằm giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế ( Điều 37 Công ước).
Nguyên tắc tự do biển cả có tác động và ảnh hưởng đến quy chế pháp lý của các eo biển, đặc biệt là các eo biển nối liền biển cả hoặc vùng đặc quyền kinh tế với nhau và được sử dụng cho hàng hải quốc tế, ví dụ như eo biển Gibralta, các eo biển Đan Mạch, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ,..
Tại các eo biển này áp dụng nguyên tắc quyền quá cảnh. Tàu thuyền và phương tiện bay của các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải và tự do hàng không với điều kiện đi qua phải liên tục, nhanh chóng qua eo biển. Yêu cầu quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn cản việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven biển hoặc để rời khỏi lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép của quốc gia này.
Quyền quá cảnh này được áp dụng cho cả tàu thuyền và phương tiện bay.
Các phương tiện bay được hưởng quyền tự do bay cao hơn so với quyền tự do hàng hải của tàu thuyền, cụ thể các phương tiện bay thực hiện quyền tự do bay không phải theo các hành lang bay quy định như trong trường hợp của tàu thuyền phải tôn trọng các tuyến đường hàng hải và hệ thống phân chia luồng giao thông do các quốc gia ven eo biển xác lập phù hợp với các quy định quốc tế đã đươc công nhận chung.
Đánh giá vai trò cùa nguyên tắc tự do biển cả:
Nguyên tắc tự do biển cả là nguyên tắc pháp lý của Luật biển quốc tế, có giá trị chi phối nhiều quy phạm của luật này Nói cách khác nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để thiết lập chế độ pháp lý các vùng của các vùng biển và duy trì trên đó họat động của các đối tượng tham gia sử dụng biển. Điều này có nghĩa rằng, tự do biển cả với những nội dung nêu trên không chỉ tồn tại duy nhất ở vùng biển cả, mà nó còn có vai trò ảnh hưởng đối với những vùng biển thuộc chủ quyền và các vùng thuộc quyền chủ quyền quốc gia. Tự do biển cả không có nghĩa là tự do một cách tuyệt đối, mà tự do phải phù hợp với định chế của Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về Luật biển năm 1982 (sau đây gọi là Công ước năm 1982) và các quy phạm khác của Luật quốc tế.
Tự do hợp tác trong khai thác và sử dụng biển cả một cách hợp lý, vì mỗi quốc gia là một thành viên của cộng đồng quốc tế nên quyền tự do biển cả cần tính đến sự hài hoà về lợi ích giữa các quốc gia. Nguyên tắc tự do biển cả (Điều 87) là quy phạm có tính chất mệnh lệnh của Luật biển quốc tế nên các quốc gia không thể tự thoả thuận với nhau để thay đổi nó.Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng, trực tiếp giải quyết một vấn đề có tính toàn cầu đó là nhân loại cùng nghiên cứu và sử dụng đại dương phục vụ lợi ích cộng đồng.
Vấn đề này xuất phát từ lý luận truyền thống: Biền là không gian mở đối với các quốc gia, theo đó, việc thiết lập các vùng biển có quy chế pháp lý khác nhau không có nghĩa là tạo ra sự chia cắt hoàn toàn độc lập giữa những khoảng không gian này với nhau, dự a theo các nhóm lợi ích đối lập.Vì vậy, vận dụng nguyên tắc tự do biển cả để thiết lập trật tự pháp lý trên biển phải đảm bảo đựơc hai vấn đề:
- Thứ nhất là đảm bảo duy trì quyền tự do cơ bản và truyền thống của cộng đồng quốc tế trong sử dụng biển;
- Thứ hai là đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia trong hưởng lợi ích và sử dụng biển vì mục đích hòa bình.
Nguyên tắc tự do biển cả một mặt hạn chế xu thế mở rộng thái quá chủ quyền của các nước ven biển lấn át biển công, mặt khác, duy trì quyền lợi vốn có của các quốc gia, không chỉ biển cả mà còn trên cả các vùng biển mà về pháp lý thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc tự do biển cả luôn được coi là nền tảng mang tính xuất phát điểm cho sự hình thành và phát triển các quy phạm của Luật biển quốc tế.
Nguyên tắc đất thống trị biển:
2.1. Vai trò của nguyên tắc đất thống trị biển:
Nguyên tắc đất thống trị biển thể hiện trong quy chế pháp lý của các vùng biển. Trong các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia, mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với việc hình thành quy chế pháp lý là khác nhau.
4a. Đối với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia:. 5
¯Nội thủy
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng nội thủy:
Thứ nhất: quốc gia ven biển chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và tuyệt đối
Vùng nội thủy về mặt pháp lý đã nhất thể hóa với lãnh thổ đất liền nên có chế độ pháp lý đất liền, nghĩa là đặt dưới chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia ven biển. Tàu thuyền nước ngoài muốn vào ra nội thủy phải xin phép nước ven biển và phải tuân theo luật lệ của nước đó. Nước ven biển có quyền không cho phép. Trong trường hợp xét thấy cần thiết cho lợi ích an ninh của mình, quốc gia ven biển có quyền tuyên bố đóng một vài cảng hoặc tất cả các cảng đã mở cho tàu bè nước ngoài trong một thời gian, tuyên bố vùng nội thủy bất kỳ là vùng cấm đối với tàu thuyền nước ngoài.
Theo Công ước về luật biển năm 1982, tàu thuyền nước ngoài có thể vào vùng nội thủy của quốc gia ven biển mà không cần xin phép trong các trường hợp bị thiên tai hoặc tai nạn gây nguy hiểm cho phương tiện và tính mạng con người trên tàu. Điều này không vi phạm nguyên tắc đất thống trị biển, dựa trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại, đáp dứng lợi ích phát triển hợp tác quốc tế và phù hợp chuẩn mực nhân đạo quốc tế.
Thứ hai: quốc gia ven biển thực hiện quyền tài phán
Đối với tàu quân sự và tàu nhà nước phi thương mại: quốc gia ven biển không có quyền tài phán về dân sự, hình sự, hành chính. Song, quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tàu thuyền đó phải rời khỏi vùng nội thủy của mình và quốc gia mà tàu thuyền đó mang quốc tịch phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho quốc gia ven biển mà tàu thuyền họ đã gây ra ở vùng nội thủy ( nếu có ).
Đối với tàu dân sự và tàu thương mại: quốc gia ven biển có toàn quyền tài phán về dân sự, hình sự, hành chính
¯. 6¯ Lãnh hải
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng lãnh hải:
Thứ nhất: quốc gia ven biển cũng có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ trong vùng lãnh hải, song không tuyệt đối như nội thủy
Ở vùng lãnh hải chủ quyền quốc gia hạn chế hơn so với các vùng lãnh thổ khác của quốc gia đó trên cơ sở tự nguyện. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền của mình trên vùng lãnh hải với điều kiện thừa nhận sự qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài. Các tàu thuyền nước ngoài có “quyền đi qua không gây hại (right of innocent passage), cụ thể là nước khác có quyền đi qua vùng lãnh hải của nước ven biển mà không phải xin phép trước nếu họ không tiến hành bất kỳ hoạt động gây hại nào như sau đây:
- Đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia ven biển.
- Luyện tập, diễn tập với bất kỳ loại vũ khí nào.
- Thu thập tin tức tình báo gây thiệt hại cho nước ven biển.
- Tuyên truyền nhằm làm hại đến nước ven biển.
- Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay, phương tiện quân sự.- Xếp dỡ hàng hóa, tiền bạc, đưa người lên xuống tàu trái quy định của nước ven biển.- Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng.
- Đánh bắt hải sản.
- Nghiên cứu, đo đạc.
- Làm rối loạn hoạt động giao thông liên lạc.
- Mọi hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua.
(theo Điều 19 Công ước về Luật biển 1982).
Điều này không hề vi phạm nguyên tắc chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ, đáp ứng lợi ích của sự hợp tác quốc tế nói chung và thương mại hàng hải nói riêng.Quyền của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải được công nhận như ở lãnh thổ của mình (về lập pháp, hành pháp và tư pháp), trên các lĩnh vực phòng thủ quốc gia, cảnh sát, thuế quan, đánh cá, khai thác tài nguyên, đấu tranh chống ô nhiễm, nghiên cứu khoa học…
Thứ hai: quyền tài phán
Theo Công ước năm 1982, quốc gia ven biển không thực hiện quyền tài phán của mình đối với tàu thuyền nước ngoài tại vùng lãnh hải. Tuy nhiên, Công ước năm 1982 cũng có quy định một số ngoại lệ như: Quốc gia ven biển có thể thực hiện quyền tài phán dân sự đối với những vụ việc dân sự mà tàu thuyền đó liên quan tới trong thời gian đi qua vùng lãnh hải ( ví dụ: trong thời gian đi qua lãnh hải, tàu thuyền đó làm hư hỏng các thiết bị chỉ dẫn, các đường ống ngầm,… ) ; Quốc gia ven biển thực hiện quyền tài phán hình sự đối với các tội phạm mà hậu quả của nó làm thiệt hại cho quốc gia đó ( ví dụ: tội buôn lậu ma túy, tội phạm gây rối loạn trật tự trong vùng lãnh hải,… ) , đối với các tội phạm xảy ra trên tàu nếu có yêu cầu từ thuyền trưởng, hoặc đại diện ngoại giao, lãnh sựcủa quốc gia mà tàu đó mang quốc tịch. 5
b. Đối với các vùng biển mà quốc gia có quyền chủ quyền. 8
¯Vùng tiếp giáp lãnh hải
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng tiếp giáp lãnh hải:
Vì vùng này đã nằm ngoài vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển, nên quốc gia ven biển chỉ được thực hiện thẩm quyền hạn chế trong một số lĩnh vực nhất định đối với các tàu thuyền nước ngoài mà thôi. Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (Điều 33) quy định trong vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có thể tiến hành các hoạt động kiểm soát cần thiết nhằm để ngăn ngừa những vi phạm đối với luật lệ về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư, bảo vệ môi trường và ngăn ngừa tội phạm khác;
Theo luật quốc tế hiện hành, quốc gia ven biển thực hiện quyền tài phán của mình ở vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm: (1) Ngăn ngừa những vụ vi phạm các quy định về hải quan, thuế vụ, y tế và di cư – nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia ven biển. (2) Truy bắt và trừng trị các vi phạm đã xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình. Riêng đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ, Điều 303 Công ước về Luật biển 1982 quy định mọi sự trục vớt các hiện vật này từ đáy biển thuộc vùng tiếp giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển thì đều bị coi là vi phạm xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia đó và quốc gia đó có quyền trừng trị.
¯Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế có chế độ pháp lý riêng do Công ước về Luật biển 1982 quy định về các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng như quyền tự do của các quốc gia khác.
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế:
Đối với các quốc gia ven biển:
Thứ nhất: quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền :
Quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về việc thăm dò, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước đáy biển, của đáy biển và vùng đất dưới đáy biển cũng như những hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế.
Đối với các tài nguyên không sinh vật, quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép quốc gia khác khai thác cho mình và đặt dưới quyền kiểm soát của mình. Đối với các tài nguyên sinh vật, quốc gia ven biển tự định tổng khối lượng có thể đánh bắt, khả năng thực tế của mình và số dư có thể cho phép các quốc gia khác đánh bắt.
Thứ hai: quốc gia ven biển có quyền tài phán :
Quốc gia ven biển có quyền tài phán về việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển (quyền tài phán quốc gia là quyền của các cơ quan hành chính và tư pháp của quốc gia thực hiện và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của họ).Quốc gia ven biển có quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các quy định luật pháp của mình.
Các quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị khai thác quá mức.
- Đối với các quốc gia khác:
Được hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không.
Được tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Khi đặt đường ống phải thông báo và thỏa thuận với quốc gia ven biển.
Được tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế.
Việc điều hành các tàu thuyền, phương tiện bay ở vùng đặc quyền kinh tế nằm dưới quyền tài phán của quốc gia mà tàu đó mang quốc tịch chứ không phải quốc gia ven biển.. 8
¯Thềm lục địa
Ảnh hưởng của nguyên tắc đất thống trị biển đối với quy chế pháp lý thềm lục địa:
Đối với các quốc gia ven biển:
Thứ nhất: Quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa
Quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh vật như dầu khí, các tài nguyên sinh vật như cá, tôm…) của mình. Vì đây là đặc quyền của quốc gia ven biển nên không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thỏa thuận của quốc gia đó. Nghĩa là chỉ quốc gia ven biển mới có quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia ven biển khi thực hiện quyền đối với thềm lục địa không được đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước phía trên, không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia khác.Khi tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở, quốc gia ven biển phải nộp một khoản đóng góp tiền hay hiện vật theo quy định của công ước.
Thứ hai: Quốc gia ven biển có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học
Mọi nghiên cứu khoa học biển trên thềm lục địa phải
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò nguyên tắc tự do biển cả và đất thống trị biển.doc