Hệ thống luật pháp thiếu sự đồng bộ, ổn định, thiếu rõ ràng. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Một số văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành, địa phương có xu hướng xiết lại, dẫn đến tình trạng “trên thoáng, dưới chặt”, thậm chí chồng chéo, thiếu thống nhất. Các ưu đãi về thuế chưa cao, chưa thực sự hướng vào xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam. Hệ thống luật pháp Việt Nam cũng chưa tạo ra một sân chơi bình đẳng cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Thủ tục và cơ chế hành chính còn phức tạp, rườm rà, mất nhiều thời gian. Các thủ tục cấp phép ; thủ tục hải quan ; thủ tục đất đai; thủ tục xây dựng; thủ tục cấp Visa; phương thức nộp thuế và thủ tục, thời gian hoàn thuế GTGT, chế độ tài chính, kế toán, chế độ quản lý ngoại hối còn thiếu đồng nhất, phức tạp, phiền hà và mất thời gian. Tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục cùng với những yếu kém trên đã làm tăng tính phức tạp, rườm rà của thủ tục hành chính.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam –Thực trạng và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện ở những khía cạnh sau:
- Một là, ĐTTTNN dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan, huỷ hoại tài nguyên môi trường nếu như nước sở tại thiếu một kế hoạch cụ thể. Các dự án ĐTTTNN thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận hơn là những lợi ích cho xã hội. Do vậy, các nước chậm và đang phát triển phải luôn thận trọng trong quá trình quy hoạch đầu tư, thẩm định và quản trị các dự án ĐTTTNN.
- Hai là, do không chủ động nên nước sở tại khó điều chỉnh được cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng... theo ý muốn. Đây là nguy cơ của sự phát triển không đều giữa các ngành các vùng kinh tế.
- Ba là, công nghệ chuyển giao trong ĐTTTNN thường là công nghệ lạc hậu, cũ kỹ, giá cao, gây ô nhiễm môi trường và được chuyển giao một cách nhỏ giọt, khiến cho các nước sở tại luôn phải chạy theo công nghệ của nước ngoài, gây tốn kém thời gian và tiền của.
- Bốn là, trong các dự án ĐTTTNN, do phía nước tiếp nhận thiếu kinh nghiệm quản lý nên thường bị thua thiệt. Chẳng hạn việc quản lý tài chính không rõ ràng dẫn đến tình trạng trốn thuế, làm giải nguồn thu ngân sách.
1.2 Các hình thức chủ yếu của ĐTTTNN
Trong thực tiễn, hoạt động ĐTTTNN có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, trong đó có 3 hình thức phổ biến là:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng.
- Doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Mỗi hình thức có những đặc trưng riêng, cụ thể từng hình thức như sau:
1.2.1 Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng:
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hay còn gọi là hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức mà các bên đối tác (bên nước ngoài và bên nước sở tại) sẽ hợp tác kinh doanh với nhau theo một hợp đồng kinh doanh.
Hình thức này không hình thành nên một pháp nhân ở nước sở tại, mà nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện của mình. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của các bên được tiến hành theo nội dung và các điều lệ của hợp đồng.
Theo Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trong đó bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng nhau thực hiện hợp đồng được ký kết giữa hai bên về việc cùng phối hợp với nhau trong sản xuất hoặc tiêu thụ một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó với sự quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông thường, hình thức này chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng số vốn ĐTTTNN. Do hình thức này khó thực hiện trên thực tế và hiệu quả đem lại thường không cao.
1.2.2 Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh (DNLD) là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng quản lý, và cùng phân phối kết quả kinh doanh nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ DNLD phù hợp với khuôn khổ hợp pháp nước sở tại.
Là một pháp nhân của nước sở tại, DNTN phải hoạt động theo luật pháp của nước sở tại. Hình thức pháp lý của liên doanh là do các Bên thoả thuận phù hợp với các quy định của Pháp luật nước sở tại. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp, có nghĩa là bên nào có tỷ lệ góp vốn cao thì sẽ nắm vững vị trí chủ chốt và quan trọng trong bộ máy quản lý.
Trong DNLD cũng luôn có sự cọ xát, gặp gỡ giữa các nền văn hoá khác nhau, được thể hiện ở sự khác biệt về ngôn ngữ, triết lý kinh doanh, lối sống, tập quán, ý thức pháp luật... Điều này dễ dẫn đến những mâu thuẫn giữa các bên đối tác, và có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ DNLD.
Do đó, hình thức DNLD thích hợp với quá trình ĐTTTNN ở thời kỳ đầu. Ưu điểm của hình thức này là: giúp cho nước sở tại tránh được những sự kiểm soát của nước ngoài, đồng thời giúp bên đối tác nước ngoài hạn chế được rủi ro của môi trường kinh doanh.Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là:thường xảy ra những bất đồng, mâu thuẫn giữa bên nước sở tại và nhà đầu tư nước ngoài trong liên doanh, do sự chênh lệch trình độ kinh nghiệm và khoảng cách về ngôn ngữ, có thể dựa vào liên doanh để thâm nhập thị trường nước sở tại.
1.2.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài :
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DN 100% VNN) là một thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân trong đó các nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn pháp định, tự quản lý doanh nghiệp và tự chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
DN 100% VNN cũng là pháp nhân của nước sở tại, nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. Quyền quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hình thức hợp pháp của DN 100% VNN là do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ luật pháp nước sở tại. Ví dụ, ở Việt Nam, hình thức hợp pháp của DN 100% VNN là công ty TNHH.
Trong DN 100% VNN cũng có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau, nhưng sự khác biệt chỉ phát sinh trong quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với người lao động là dân bản xứ với mức độ và tính chất cọ xát ít hơn so với DNLD. Với những đặc trưng trên hình thức DN 100% VNN có ưu điểm là: hạn chế được những mâu thuẫn, bất đồng với nước sở tại, do đó có thể hoạt động một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của nó là nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt với một thị trường mới lạ, chứa đựng nhiều rủi ro mà nhà đầu tư cũng chưa có kinh nghiệm, kiến thức về phong tục, tập quán, luật pháp, cũng như thông tin về bạn hàng và các quan hệ làm ăn. Do vậy, DN 100% VNN thường xuất hiện trong giai đoạn sau của quá trình ĐTTTNN, khi mà nhà đầu tư đã tích tụ được một số kinh nghiệm làm ăn ở nước sở tại, đồng thời nước sở tại hoàn toàn có khả năng kiểm soát đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
1.3 Kinh nghiệm thu hút vốn ĐTTTNN ở Trung Quốc:
Nằm trong chiến lược mở cửa nhiều tầng nấc, mọi hướng, chiến lược thu hút ĐTTTNN giai đoạn đầu của Trung Quốc là phát triển các đặc khu kinh tế. Theo đó, Chính phủ lựa chọn các vùng có điều kiện thuận lợi nhất để tạo điều kiện mở cửa trước tiên. Thành công của những đặc khu này là đã trở thành những điểm thu hút kỹ thuật sản xuất và cách thức quản lý của người nước ngoài. Tiếp theo các đặc khu kinh tế là việc phát triển các khu khai thác và phát triển kinh tế, kỹ thuật, kết hợp với việc phát triển cơ sở hạ tầng và khuyến khích ưu đãi với đầu tư nước ngoài, điều này đã đẩy nhanh tốc độ của nguồn vốn ĐTTTNN chảy vào Trung Quốc.
Trong giai đoạn hiện nay, dựa trên việc ổn định, phát triển kinh tế liên tục, thị trường có sức mua lớn và tăng trưởng nhanh, Trung Quốc thực hiện chuyển hướng chính sách thu hút ĐTTTNN để thích nghi với xu thế mới. Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, từng bước thực hiện chế độ đãi ngộ quốc dân, giảm thuế, Trung Quốc còn huỷ bỏ việc hạn chế sản lượng nhập khẩu hàng công nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp quốc hữu thu hút vốn ĐTTTNN, mở rộng thu hút ĐTTTNN trên lĩnh vực thương mại - dịch vụ, mở ra nhiều phương thức đầu tư mới, thu hút ĐTTTNN vào việc điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, đầu tư theo vùng (đặc biệt là Miền Tây, Trung Quốc), kêu gọi Hoa Kiều về nước đầu tư.... Với những chính sách mang tính chiến lược như trên, Trung Quốc đã tạo được sức hút vô cùng lớn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, thực trạng và một số kiến nghị.
2.1 Thực trạng ĐTTTNN vào Việt Nam
2.1.1Những kết quả đạt được
Đầu tư nước ngoài đã tạo nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy tăng trưởng
Sau gần 17 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam(kể từ 12/1987 đến hết ngày 31 tháng 7 năm 2004), cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho 5.873 dự án ĐTNN, trong đó có 4.796 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư cấp mới là 43,97 tỷ USD,vốn pháp định 19,5 tỷ USD; trong đó 45,4% vốn đầu tư cấp mới theo hình thức 100% vốn nước ngoài và 42,5% theo hình thức liên doanh; số vốn còn lại đầu tư theo hình thức BCC (Hợp đồng hợp tác kinh doanh) và BOT (Xây dựng-hoạt động-chuyển giao).
Trong 7 tháng đầu năm 2004, vốn cấp mới đạt 2,21 tỷ USD, tăng 38,8% so với cùng kỳ năm 2003.Ước tính cả năm 2004 vốn cấp mới đạt 3,35-4 tỷ USD, tăng khoảng 9%-29% so với năm 2003.Đặc biệt, vốn bổ sung của các dự án đầu tư mở rộng sản xuất với quy mô lớn chứng tỏ ngày càng có nhiều dự án ĐTNN hoạt động có hiệu quả. Kết quả này cho thấy xu hướng phục hồi dòng vốn ĐTNN năm 2004 rõ rệt hơn so với các năm trước kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần qua các năm. Nếu như năm 1993, đóng góp của khu vực ĐTNN vào GDP của Việt Nam chỉ đạt 3,6% thì năm 2000 đã đạt mức 13,3%. Trong hai năm 2001, 2002, tỷ lệ này đều đạt ở mức trên 13%.Hoạt động của khu vực ĐTNN có tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển, mức đóng góp của khu vực ĐTTTNN vào thu ngân sách ngày càng tăng, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi, góp phần cải thiện cán cân thanh toán của Việt Nam .
ĐTTTNN giúp chuyển giao các công nghệ hiện đại, tạo môi trường cạnh tranh, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất:
Cùng với hoạt động ĐTTTNN, các nhà đầu tư nước ngoài đã tiến hành chuyển giao công nghệ. Nhiều công nghệ mới được nhập vào nước ta như: thiết kế, chế tạo máy biến thế, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, lắp ráp tổng đài điện thoại tự động, kỹ thụât số, công nghệ sản xuất cáp điện, sản xuất ô tô, khai thác dầu khí... Về chất lượng công nghệ ĐTTTNN đã đưa vào Việt Nam, nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị là đồng bộ, có trình độ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có ở trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Một số thiết bị qua sử dụng đã được nâng cấp trước khi đưa vào Việt Nam.
Để đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao không chỉ có máy móc thiết bị hiện đại mà trong quá trình đầu tư, nhà đầu tư còn rất quan tâm đến việc tham gia đào tạo, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho người lao động Việt Nam, kể cả lao đông trực tiếp lẫn đội ngũ quản lý.
Như vậy, thông qua việc chuyển giao công nghệ, ĐTTTNN không chỉ góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới với kiểu dáng đẹp, chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn trong và ngoài nước mà còn đào tạo nên một đội ngũ lao động lành nghề, cán bộ quản lý có trình độ cao, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới về công nghệ, trình độ quản lý, và tổ chức sản xuất để tồn tại. Chính điều này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất Việt Nam. Bên cạnh đó, ĐTTTNN còn giúp cung cấp kinh nghiệm trong quản lý và đầu tư, tạo nền nguồn động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Cho đến đầu năm 2004, đã có 96 dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tại 26 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đăng ký đạt trên 215 triệu USD.
ĐTTTNN góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, làm tăng thu nhập của người dân.
Tính đến hết năm 2002, khu vực ĐTNN đã tạo việc làm trực tiếp cho 62 vạn lao động và hàng chục vạn hộ lao động gián tiếp tham gia cung ứng dịch vụ có liên quan.Tốc độ thu hút lao động vào khu vực này tăng dần qua các năm. Năm 2001 thu hút 6,9 vạn lao động,tăng 19%, năm 2002 có thêm 17,5 vạn,tăng 39%. Số lao động trong khu vực ĐTNN hai năm trở lại đây chủ yếu thu hút vào ngành công nghiệp chế biến.
ĐTNN cũng đem lại thu nhập cho cho một bộ phận đáng kể người lao động và tăng sức mua cho thị trường xã hội. Hiện nay, lương bình quân của công nhân Việt Nam trong khu vực ĐTNN phổ biến ở mức 75-80 USD/tháng, cao hơn bình quân chung của doanh nghiệp trong nước; lương kỹ sư đạt từ 220-250 USD ; cán bộ quản lý từ 490-510 USD. Tổng thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế này ước tính hàng năm lên tới trên 500 triệu USD.
ĐTTTNN góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá:
Chính sách khuyến khích ĐTNN vào các lĩnh vực ưu tiên phát triển, các địa bàn có kinh tế xã hội khó khăn, các khu công nghiệp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Thực tế cho thấy trong những năm đầu, các dự án tập trung nhiều vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản (khách sạn,văn phòng cho thuê...), thì thời kì 1996-2000. dòng vốn này đã có sự chuyển hướng, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất với cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, hướng vào sản xuất, chế biến xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng.
Cụ thể ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ đã có sự chuyển dịch mạnh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu lĩnh vực ĐTNN tại Việt Nam. Trong thời kỳ 1996-2000, các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật( viễn thông, dịch vụ kỹ thuật) tăng 1,4 lần so với năm năm trước. Trong lĩnh vực sản xuất, ĐTNN hiện chiếm gần 35% sản lượng công nghiệp với tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả nước đạt 11-13%/năm. Như vậy, ĐTTTNN đã và đang có sự chuyển dịch cơ cấu phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta.
Chính sách khuyến khích ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu( chưa kể dầu khí) của ĐTNN tăng nhanh, trong đó thời kỳ 1991-1995 đạt trên 1,12 tỷ USD, thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước.Trong các năm 2001 và 2002, kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt giá trị tương ứng 3,67 tỷ USD và 4,5 tỷ USD, chiếm trung bình hơn 25% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Mặt khác, hoạt động xuất khẩu của khu vực ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy sự phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ kinh doanh; tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường quốc tế, qua đó mở rộng thị trường cho sản phẩm Việt Nam. Nhờ vậy, các mối quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Việt Nam với các nước, các khu vực trên thế giới đã được thiết lập và củng cố.
2.1.2 Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân
Xu hướng giảm nguồn vốn ĐTTTNN trong những năm gần đây:
Trong ba năm từ 1997-1999, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế các nước trong khu vực và một số hạn chế của môi trường đầu tư, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam giảm trung bình 24%/năm.
Kể từ năm 2000 đến nay, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam có dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên số vốn đăng ký các năm này so với số vốn đăng ký năm 1996 (là 86.410 triệu USD) thì vẫn còn rất thấp. Vốn đầu tư thực hiện tăng nhưng tỷ trọng vốn ĐTNN trong tổng đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm do tốc độ tăng vốn ĐTNN thực hiện chậm hơn tốc độ tăng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. 7 tháng đầu năm 2004, mặc dù tính chung cả tăng vốn, vốn đầu tư cấp mới tăng đáng kể so với năm 2003,nhưng vẫn ở mức thấp so với tiềm năng thực tế của nước ta.Số dự án lớn gắn với chuyển giao công nghệ còn ít. Những ưu thế về trị an, lao động của ta đang giảm dần(tình trạng thiếu lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều lao động ở các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, Bắc Bộ-Hải Phòng, Hải Dương)
Cơ cấu vốn đầu tư mặc dù đã có cải thiện nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý:
Về cơ cấu ngành, vốn đầu tư chỉ tập trung vào những ngành nghề có khả năng mang lại lợi nhuận cao như các ngành công nghiệp và xây dựng, nên đầu tư vào các ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp như ngành nông - lâm - thuỷ sản vẫn còn quá nhỏ; đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng giảm sút so với các năm trước. Về cơ cấu đầu tư theo địa bàn, phần lớn vốn đầu tư tập trung vào các trung tâm kinh tế (như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội...) chưa chú ý đến các tỉnh miền núi nông thôn. Theo đối tác, gần 70% vốn ĐTTTNN là từ các nước Châu á, vốn từ Mỹ và Tây Âu còn hạn chế. Điều này cho thấy sự không đồng đều trong cơ cấu đầu tư theo ngành, theo lĩnh vực cũng như theo đối tác.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn ĐTTTNN còn thấp, số doanh nghiệp khai lỗ ngày càng tăng, ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Một phần tình trạng này là do sự thiếu thiện chí của nhà đầu tư nước ngoài, chẳng hạn, một số nhà đầu tư cố tình tăng chi phí đầu vào, chi phí cho quảng cáo, khiến cho một số DNLD liên tục bị lỗ vốn. Kết quả là bên Việt Nam phải tự rút lui khỏi liên doanh và nhà đầu tư nước ngoài đạt được mục đích của mình là xâm chiếm được thị trường. Tình trạng khai lỗ của doanh nghiệp ĐTTTNN còn khiến cho nhà nước mất đi một số nguồn thu như thuế thu nhập và các khoản thuế khác.
Hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ
Theo đánh giá của một số chuyên gia công nghệ thì có khoảng 30-40% số dự án ĐTTTNN tiếp nhận được công nghệ thích hợp, đạt trình độ và mang lại hiệu quả tương đối cao; phần còn lại là những công nghệ trình độ kỹ thuật cao nhưng không phù hợp hoặc công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả gây ô nhiễm môi trường. Từ đó dẫn đến việc sản xuất ra những sản phẩm có tính cạnh tranh không cao và gây ô nhiễm môi trường.
Những tác động tiêu cực về chính trị - văn hoá - xã hội. Chẳng hạn như việc chảy máu chất xám từ khu vực cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp quốc doanh sang khu vực các doanh nghiệp ĐTTTNN. Một số dự án đầu tư lợi dụng sự không rõ ràng trong quy định về quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam để sản xuất hàng nhái, hàng giả...
Nguyên nhân của những hạn chế trên
Hạn chế về môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế của Việt Nam còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa tạo được thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp có vốn ĐTTTNN nói riêng. Tốc độ tăng trưởng hiện nay đã giảm đáng kể so với thời kỳ trước. Thêm vào đó là việc định giá quá cao đồng VND so với đồng USD đã làm giảm vốn đầu tư bằng VND của nhà đầu tư. Hiện nay, tuy thị trường hàng hoá dịch vụ phát triển nhanh, nhưng do quản lý chưa tốt nên tình trạng kinh doanh trái phép, gian lận thương mại còn phổ biến đã ảnh hưởng không nhỏ đến các nhà sản xuất. Thị trường công nghệ và các dịch vụ thông tin, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán,… chưa phát triển kịp thời với các lĩnh vực hợp tác đầu tư. Thị trường vốn, thị trường chứng khoán kém phát triển cũng hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu vốn của các nhà đầu tư…
Hệ thống luật pháp thiếu sự đồng bộ, ổn định, thiếu rõ ràng. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Một số văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành, địa phương có xu hướng xiết lại, dẫn đến tình trạng “trên thoáng, dưới chặt”, thậm chí chồng chéo, thiếu thống nhất. Các ưu đãi về thuế chưa cao, chưa thực sự hướng vào xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam. Hệ thống luật pháp Việt Nam cũng chưa tạo ra một sân chơi bình đẳng cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Thủ tục và cơ chế hành chính còn phức tạp, rườm rà, mất nhiều thời gian. Các thủ tục cấp phép ; thủ tục hải quan ; thủ tục đất đai; thủ tục xây dựng; thủ tục cấp Visa; phương thức nộp thuế và thủ tục, thời gian hoàn thuế GTGT, chế độ tài chính, kế toán, chế độ quản lý ngoại hối… còn thiếu đồng nhất, phức tạp, phiền hà và mất thời gian. Tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục cùng với những yếu kém trên đã làm tăng tính phức tạp, rườm rà của thủ tục hành chính.
Ngoài những nguyên nhân là sự yếu kém về môi trường đầu tư (như đã trình bày ở trên), cũng còn có một số nguyên nhân khác dẫn đến những hạn chế của ĐTTTNN ở Việt Nam. Đó là:Thiếu một hệ thống luật pháp về đầu tư hoàn chỉnh; Khâu quy hoạch thu hút ĐTTTNN còn nhiều yếu kém; Công tác quản lý Nhà nước với ĐTTTNN còn kém hiệu quả, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào các hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể là: tập trung quá sâu vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng quản lý sau khi cấp phép.
Hạn chế về mặt thông tin cũng là vấn đề làm hạn chế ĐTTTNN vào Việt Nam. Đại diện của UN-ESCAP cho rằng có đến "99%" nhà đầu tư trên thế giới không biết gì về đất nước Việt Nam.
Tóm lại, tuy môi trường đầu tư ở Việt Nam từng bước được cải thiện, nhưng so với một số nước trong khu vực, lợi thế cạnh tranh ở Việt Nam đang giảm dần do chi phí “đầu vào” cao, chính sách đi vào cuộc sống chậm, thủ tuc hành chính con nhiều bất cập, kết cấu hạ tầng nhìn chung còn yếu kém, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài chưa tốt, gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI, làm giảm sút tăng trưởng và sự phát triển của các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế này đòi hỏi Nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải có được những giải pháp thiết thực và hiệu quả để tăng cường hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
2.2 Một số kiến nghị về việc đẩy mạnh thu hút vốn ĐTTTNN tại Việt Nam
2.2.1 Nhóm giải pháp nhằm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư.
Cải tạo môi trường kinh tế:
Để tăng sự hấp dẫn của môi trường kinh tế, trước mắt Nhà nước cần điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo hướng có lợi cho nhà xuất khẩu. Có nghĩa là, cần phá giá nhẹ đồng VND. Khi đó, lượng nhập khẩu nguyên vật liệu sẽ giảm, khuyến khích nhà đầu tư tăng tỷ lệ nội địa hoá, hướng mạnh về sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước cần dùng những biện pháp kích cầu để tăng sức mua của thị trường. Muốn vậy, cần phải cải thiện thu nhập của người dân. Để làm được việc này thì nền kinh tế phải đạt tăng trưởng cao liên tục. Muốn vậy, cần phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá (CNH- HĐH), mở cửa hơn nữa nền kinh tế và tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Một giải pháp quan trọng khác nữa để cải thiện môi trường kinh tế là đẩy mạnh việc phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán. Theo đó, Nhà nước cần nới lỏng các quy định đối với người nước ngoài mua và phát hành cổ phiếu, trái phiếu trong và ngoài nước, phát triển thị trường vốn để doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu), tự do hoá hoạt động ngân hàng - tài chính bảo đảm nhu cầu vay vốn của nhà đầu tư.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật,chính sách
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chính sách về ĐTNN theo hướng tạo thêm điều kiện thuận lợi, đảm bảo tính minh bạch và dễ tiên đoán, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.Cụ thể như:
- Chính sách đất đai: soát lại giá thuê đất, miễn giảm tiền thuê đất trong một vài năm đầu, giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc trong quá trình triển khai dự án. Chính sách đền bù cần ổn định nhất quán và kiên quyết. Chuyển chế độ góp vốn bằng quyền sử dụng đất sang chế độ Nhà nước cho thuê đất.
- Trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng, nhà nước xây dựng quy chế quản lý tài chính của doanh nghiệp ĐTTTNN, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, mặt khác bảo đảm sự quản lý Nhà nước về hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
- Chính sách thuế: thống nhất một mức thuế suất chung cho các doanh nghiệp. Điều này sẽ tạo niềm tin cho nhà đầu tư ngoại quốc vì sẽ không có sự phân biệt đối xử, gây bất lợi cho họ. Việc xây dựng chính sách thuế phải khuyến khích được ĐTTTNN sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm. Nhà nước cũng cần tiếp tục đàm phán, ký kết thêm các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (đánh thuế trùng), trước hết là với các nước ASEAN để tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy đầu tư trong khu vực, đồng thời góp phần thu hút hơn nữa ĐTTTNN từ các thị trường Châu Âu, Châu Mỹ.
- Mặt khác, Nhà nước cần sửa đổi chế độ 2 giá đối với giá điện, cước viễn thông, cước vận tải,... giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTTTNN; nhanh chóng điều chỉnh giảm chi phí, như chi phí ngoài luật (chi phí tư vấn, chạy thủ tục), tình trạng nhũng nhiễu của các cán bộ, chi phí vô hình chờ đợi vì tệ quan liêu, giải phóng mặt bằng quá chậm, hạ tầng yếu kém, chất lượng lao động, trình độ quản lý yếu kém.
Về hệ thống pháp luật, cần hoàn thiện theo hướng đồng bộ, ổn định, rõ ràng, phù hợp với hệ thống pháp luật chung của nước ngoài để tạo ra một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và ĐTTTNN. Cụ thể : Sớm ban hành hệ thống Luật, như Luật về kinh doanh bất động sản, Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền để bảo đảm thị trường tự do cạnh tranh, Luật bản quyền bảo vệ tài sản hữu hình và vô hình của nhà đầu tư... Bảo đảm sự ổn định của Pháp luật và chính sách đối với ĐTTTNN, thực hiện triệt để nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài. Yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương sớm ban hành các văn bản dưới Luật, đảm bảo sự thống nhất với Luật đầu tư, tránh tình trạng "trên thoáng dưới chặt".
Hoàn thiện cơ chế hành chính:
Việc hoàn thiện cơ chế hành chính phải được thực hiện theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, thông thoáng, hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế. Để đảm bảo định hướng này Nhà nước cần có những giải pháp sau:
- Dần dần thực hiện cơ chế "một cửa, một dấu" do trung tâm hoặc Hội đồng tư vấn đầu tư nước ngoài gồm đại diện của các Bộ, các ngành chủ chốt liên quan tập trung giải quyết theo kiểu "hoàn thiện thủ tục tại một đầu mối ".
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương, phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan, thực hiện giao ban định kỳ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28361.doc