Tiểu luận Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992

Về tên gọi, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước đây gọi là kinh tế quốc doanh, nhưng sau đó chúng ta đã nhận thức lại và gọi là kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể trước đây được gọi là thành phần kinh tế hợp tác xã (Hiến pháp 1980) nhưng sau cũng được đổi lại cách gọi cho chuẩn xác hơn.

Thứ hai, so sánh về vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Ở đây có xuất hiện nét tương đồng bởi ở cả hai bản Hiến pháp đều quy định thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh) giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lí vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Còn nền kinh tế tập thể(kinh tế hợp tác xã) vẫn được “ Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả”(Điều 20 Hiến pháp năm 1992). Tuy nhiên, cũng trong bản Hiến pháp năm 1992 do có sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế hơn, nên vị trí của kinh tế tập thể không còn có chỗ đứng vững chắc như trong thời kì trước. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để phát triển. Và trên thực tế, các thành phần này đang là những thành phần kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất, vị trí ngày càng được nâng cao trong toàn nền kinh tế đất nước và tạo ra một nền kinh tế thị trường sôi động tại Việt Nam.

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4229 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sức mạnh của mình trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm làm cho khối lượng sản phẩm xã hội ngày càng tăng, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng cường khả năng hợp tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật của các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác nhau…Như vậy Nhà nước ta từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức sản xuất. Chấp nhận cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc chúng ta chấp nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đồng thời ta cũng chấp nhận những mặt tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại như : phân hoá giàu nghèo, bóc lột sưc lao động, làm hàng giả,buôn lậu... Nhưng đó không phải là sự chấp nhận một cách thụ động mà có sự định hướng xã hội chủ nghĩa với những phương thức khác nhau như pháp luật, kế hoạch, chính sách để nhằm hạn chế những mặt tiêu cực đó. Bên cạnh đó để đảm bảo lợi ích của nhân dân lao động lên hàng đầu phải không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở sử dụng hợp lý sức lao động, tài nguyên của đất nước cũng như áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau đó là: _ Do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi thời kỳ là khác nhau. Năm 1980, do nước ta mới giành được độc lập, các cơ sở kinh tế bị tàn phá, nền kinh tế ở trong tình trạng kém phát triển, nhân dân tuy đã được độc lập, tự do nhưng còn thiếu thốn trăm bề, ngay cả cơm không đủ ăn, những nhu cầu thiết yếu không được đáp ứng. Chính vì thế mục tiêu hàng đầu và cấp bách của Nhà nước đặt ra cho nền kinh tế lúc bây giờ là phải đáp ứng được căn bản những nhu cầu đó của nhân dân. Năm 1999, sau thời kỳ khủng hoảng do chế độ tập trung bao cấp mang lại, Nhà nước ta đã nhận ra sai lầm và thực hiện cải cách vào năm 1986. Năm 1999 là giai đoạn nước ta đạt được những thành tựu bước đầu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt kinh tế, thể hiện sự đúng đắn của đường lối cải cách. Nhân dân ta đã được đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc…Tất yếu nhu cầu văn hoá, vật chất của người dân sẽ ngày càng cao hơn, chính vì thế mục đích của chính sách kinh tế cũng phải có tính chất cao hơn. Từ chỗ làm cho nhân dân “ăn no mặc ấm” trở thành “ăn ngon, mặc đẹp”. _ Do cơ chế quản lý kinh tế Năm 1980, nước ta thực hiện chế độ tập trung quan liêu bao cấp, đóng kín cửa với thế giới chỉ nhận sự trợ cấp, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em như : Liên Xô, Trung Quốc… Năm 1992, nước ta thực hiện phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy việc mở cửa nền kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá là tất yếu. _ Do tâm lý chính trị Năm 1980, như đã nói ở trên nước ta vừa thực hiện thành công công cuộc giữ nước, đánh đuổi được đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho nước nhà. Trong không khí hân hoan đó xuất hiện những tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí từ những người lãnh đạo Nhà nước: nước ta sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Nhưng thực chất cơ sở hạ tầng của nước ta lúc bấy giờ đang rất yếu kém, nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ mà thôi. Chính tư tưởng kiến trúc thượng tầng phát triển có thể thúc đẩy hạ tầng phát triển theo nên Nhà nước ta đã đốt cháy giai đoạn, đề ra những phương hướng phát triển kinh tế trái với quy luật phát triển tự nhiên như quy định tại bản Hiến pháp năm 1980. Năm 1992, với sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô cùng với các nước Đông Âu, nhận thấy rõ sai lầm của mình Nhà nước ta đã thực hiện cải cách và đạt được những thành công đáng kể bước đầu. Nhà nước ta nhận ra sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế tư bản phát triển đến mức điển hình. Chính vì thế, phát triển kinh tế hàng hoá nhưng hạn chế những tiêu cực của nó bằng việc định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng sẽ vẫn đưa được nền kinh tế đi lên mà không đi chệch với con đường đã chọn – tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Đánh giá: Hai bản Hiến pháp có sự khác nhau cơ bản về mục đích đặc biệt là phương hướng phát triển kinh tế. Sự chuyển hướng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự định hướng có sự quản lý của Nhà nước là bước ngoặt trong đời sống kinh tế của xã hội, đánh dấu sự đổi mới nhận thức với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ hoá trong đời sống kinh tế của xã hội, đem lại những thành tựu không thể phủ nhận trong sự phát triển kinh tế ở những năm gần đây. Đưa nền kinh tế nước ta trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nóng, dần xoá tên Việt Nam trong danh sách những nước nghèo của thế giới. Thứ hai: về thành phần kinh tế được xác định trong hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992. Khi so sánh về các thành phần kinh tế được nêu trong hai bản Hiến pháp 1980 và 1992, ta dựa trên các tiêu chí sau: Tên gọi và số lượng thành phần kinh tế. Vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế được quy định tại mỗi bản Hiến pháp. Mục đích sản xuất kinh doanh của mỗi thành phần kinh tế qua từng thời kì. Vai trò, sự tác động qua lại giữa các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được xác định trong hai bản Hiến pháp và qua đó rút ra tính phù hợp của hai bản Hiến pháp. Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất ( mà hạt nhân là quan hệ sở hữu ) nào thống trị để xác định từng thành phần kinh tế. So sánh về thành phần kinh tế, tức là ta đi so sánh về những hình thức tổ chức kinh tế, những phương thức quản lí của Nhà nước phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Và chính từ sự so sánh này, chúng ta mới nhận thức rõ hơn sự phù hợp hay không của chính sách phát triển các thành phần kinh tế ở trong hai bản Hiến pháp. Trước hết, ta đi so sánh về tên gọi và số lượng các thành phần kinh tế. Tại bản Hiến pháp năm 1980, Nhà nước ta chỉ chủ trương “thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động” ( Điều 18, Hiến pháp Việt Nam 1980). Nhưng cho đến Hiến pháp năm 1992, Nhà nước chủ trương phát triển một nền “kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”(Điều 15). Lần đầu tiên Nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế cũng như tác dụng tích cực của kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (Điều 22). Nền kinh tế nhiều thành phần được nói đến trong bản Hiến pháp năm 1992 bao gồm: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể dễ nhận thấy ngay sự khác biệt chỉ qua số lượng các thành phần kinh tế được Nhà nước quy định. Có sự khác biệt về số lượng các thành phần cũng chứng tỏ sự thay đổi trong cả chính sách kinh tế và quản lí nền kinh tế của Nhà nước. Sự thay đổi này được đánh giá là một sự thay đổi đi lên, vì nó phù hợp với thực tiễn, hoàn cảnh đất nước trong thời kì đổi mới. Nền kinh tế nhiều thành phần được Nhà nước thừa nhận làm phong phú và đa dạng hóa các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, tạo điều kiện đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền đã từng xảy ra trong thời kì trước đó, khi mà trong Hiến pháp 1980 Nhà nước chỉ cho thừa nhận sự tồn tại của hai thành phần chủ yếu, các thành phần kinh tế khác ít có cơ hội để phát triển. (xuống hàng) Về tên gọi, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước đây gọi là kinh tế quốc doanh, nhưng sau đó chúng ta đã nhận thức lại và gọi là kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể trước đây được gọi là thành phần kinh tế hợp tác xã (Hiến pháp 1980) nhưng sau cũng được đổi lại cách gọi cho chuẩn xác hơn. Thứ hai, so sánh về vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Ở đây có xuất hiện nét tương đồng bởi ở cả hai bản Hiến pháp đều quy định thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh) giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lí vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Còn nền kinh tế tập thể(kinh tế hợp tác xã) vẫn được “ Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả”(Điều 20 Hiến pháp năm 1992). Tuy nhiên, cũng trong bản Hiến pháp năm 1992 do có sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế hơn, nên vị trí của kinh tế tập thể không còn có chỗ đứng vững chắc như trong thời kì trước. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để phát triển. Và trên thực tế, các thành phần này đang là những thành phần kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất, vị trí ngày càng được nâng cao trong toàn nền kinh tế đất nước và tạo ra một nền kinh tế thị trường sôi động tại Việt Nam. Thứ ba,về mục đích sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, hay nói đúng hơn là những chính sách mà Nhà nước định hướng cho việc hoạt động của các thành phần kinh tế, qua hai bản Hiến pháp có sự khác biệt rõ nét. Lí do là vì, trong bản Hiến pháp 1992 có sự thay đổi cơ bản về nội dung của chế độ kinh tế, dẫn đến sự khác biệt trong chính sách phát triển. Tại các điều 22, 23, 24 Hiến pháp 1980 quy định chính sách kinh tế đối với hai thành phần kinh tế chính, theo đó “Các cơ sở kinh tế quốc doanh…thực hiện chế độ hạch toán, chế độ thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá nhân…”.Điều này vô hình chung đã tạo điều kiện cho sự tồn tại kéo dài của chế độ quan liêu, bao cấp, cửa quyền, kéo chậm sự phát triển của nền kinh tế. Cũng do chỉ thừa nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế nên không thể tránh khỏi việc xảy ra chế độ độc quyền trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Nhưng tại Hiến pháp năm 1992, lỗ hổng này được khắc phục về cơ bản khi Nhà nước chủ trương chấn chỉnh và tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế nhà nước. Đối với những xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ phải chuyển hóa hình thức sở hữu để sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất như chuyển thành xí nghệp cổ phần để đấu thầu, cho thuê. Nhà nước cũng chủ trương để các cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh để phát huy tính năng động hiệu quả của các đơn vị kinh tế. Đây là bước phát triển mới trong việc quy định mục đích, nhiệm vụ và hướng hoạt động cho thành phần kinh tế nhà nước để xóa bỏ những hạn chế của bản Hiến pháp 1980. Các thành phần kinh tế như kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều được Nhà nước giúp đỡ phát triển theo hướng tích cực, trong đó “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Có thể nhận thấy, sự thay đổi rõ nét về cách nhìn nhận vấn đề phát triển kinh tế qua hai bản Hiến pháp, từ đó Đảng và Nhà nước đã đưa ra những định hướng đúng hơn cho những bước tiến của nền kinh tế đất nước, góp phần thay đổi bộ mặt và vị thế của đất nước. Cuối cùng, khi so sánh về vai trò, sự tác động qua lại giữa các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, ta nhận thấy: Bản Hiến pháp năm 1980 chỉ có hai thành phần kinh tế tồn tại, nên trong hoạt động kinh tế có xuất hiện tình trạng độc quyền, độc quyền nhà nước hay độc quyền hợp tác xã, các thành phần khác không có nhiều cơ hội để cạnh tranh và phát triển, hoặc cạnh tranh không bình đẳng. Hơn nữa, “Nhà nước độc quyền về ngoại thương trong mọi quan hệ kinh tế khác vơi nước ngoài” nên trong thực tế, có thời kì nền kinh tế nước ta bị coi là nền kinh tế đóng kín. Nhưng Hiến pháp 1992 lại là sự thay đổi cơ bản, có nhiều thành phần kinh tế hơn, Nhà nước hầu như không tham gia trực tiếp mà chỉ đóng vai trò điều tiết, tao ra một sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Sự tác động qua lại của các thành phần có nhịp nhàng, uyển chuyển hơn, thoát khỏi sự cứng nhắc và máy móc. Sự mở cửa của nền kinh tế với sự xuất hiện của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài buộc các thành phần kinh tế nội địa phải gắn kết với nhau hơn nếu không muốn bị tụt hậu về các khâu sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ hay phân phối. Mặt khác, cũng do sự tất yếu của cơ chế mở cửa mà nguồn vốn đầu tư vào trong nước tăng lên mạnh mẽ, sự chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực quản lí và tạo cơ hội việc làm được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Có thể nhận xét, chính sách phát triển kinh tế được quy định qua Hiến pháp 1992 khắc phục phần lớn hạn chế của chính sách phát triển kinh tế trong Hiến pháp 1980, là một bước phát triển lớn, đúng đắn và tạo đà cho bước nhảy của nền kinh tế Việt Nam.( chuyển xuống cuối ) Thư ba: về chế độ kinh tế được ghi nhận trong hai bản hiến pháp Trong chế độ kinh tế thì chế độ sở hữu là vấn đề mấu chốt nhất.Sở hữu trước hết là những quan hệ kinh tế được hình thành trong quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối các lợi ích vật chất và tinh thần. Ta thấy rằng: hiến pháp năm 1980 ra đời trong hoàn cảnh điều kiện kinh tế bao cấp và khủng hoảng kinh tế đang xảy ra nghiêm trọng và ý tưởng đổi mới của Đảng đang hình thành .Trong khi đó hiến pháp năm 1992 lại ra đời trong hoàn cảnh cơ chế quản lí kinh tế đã chuyển đổi nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bước đầu đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng Thực chất của bước chuyển đổi kinh tế đó là cuộc cải cách cấu trúc lại nền kinh tế mà bắt đầu từ chế độ sở hữu. (nên cắt bỏ phần này) Điểm khác nhau cơ bản giữa 2 bản hiến pháp là: Hiến pháp năm 1980 chỉ ghi nhận 2 hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.Trong khi đó hiến pháp năm 1992 lai thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên 3 hình thức sở hữu là: sở hữu toàn dân , sở hữu tập thể , và sở hữu tư nhân. Trong mỗi hình thức sở hữu được ghi nhần trong từng bản hiến pháp lại có sự khác nhau. 1.Sở hữu toàn dân: là sở hữu trong đó toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với tài sản. Trong sở hữu toàn dân ở 2 bản hiến pháp thì điểm khac nhau cơ bản nhất là hướng phát triển.Trước đây ở hiến pháp năm 1980 cấc doanh nghiệp các cơ quan và các tổ chức thuộc sở hữu toàn dân được bảo hộ đến cùng, không bao giờ bị giải thế . bị phá sản hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu vì sở hữu nhà nước là nền tảng đánh giá mức độ chin muồi của CNXH. Tuy nhiên ngày nay trong hiến pháp năm 1992 sở hữu nhà nước được điều chỉnh theo 2 hướng : - Xác định những khu vực được côi là then chốt , chủ yếu nhất như các cơ sở công nghiệp năng, công nghiệp chế tạo máy, công nghiệp hoá chất , giao thông vận tải…phải củng cố và mở rộng sở hữu nhà nước.Mặt khác phải thu hẹp sở hữu nhà nước ở những ngành , những lĩnh vưc , đơn vị kinh tế làm ăn kém hiệu quả hoặc chưa thực sự cần thiết dưới nhiều hình thức như: chuyển quyền sở hữu , bán đấu thầu , chuyển thành công ty cổ phân - Thực hiện phân cấp quản lí tài sản thuộc sở hữu nhà nước nhằm bảo toàn và phát triển số tài sản này.Trong những năm qua nhà nước đã tiến hành rộng rãi việc giao vốn cho các đơn vị kinh tế quốc doanh , trên cơ sở đó tăng cường trách nhiệm trong việc sử dụng vốn của các đơn vị kinh tế quốc doanh.Còn đối với ruộng đất là sở hữu nhà nước cũng quy định quyền sữ dụng ổn định và lâu dài đối với cá nhân và tập thể được giao. 2. Sở hữu tập thể: là sở hữu của các hợp tác xă hoặc các hình thức kinh tế ổn định khác do cá nhân hộ gia đình góp vốn góp sức hợp tác sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ cùng có lợi để thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ. Trươc đây sở hữu tập thể được quy định tại điều 23 HP1980 . Các tập thể được hình thành theo mệnh lệnh của nhà nước . Khi đó chúng ta chưa quan tâm đúng mức tới các nguyên tắc tự nguyện dân chủ và cùng có lợi. Vì thế , sở hữu tập thể có lúc bị biến dạng và không được phát triển . Trong HP1992 đổi mới giúp ta có những nhìn nhận mới về sở hữu tập thể .Chúng ta không còn đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá . Hợp tác xã theo mô hình mới phải là đơn vị kinh tế tập thể do người lao động tự nguyện góp vốn và sức lao động cùng nhau tiến hành kinh doanh . Nhu cầu sản xuất và lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy những người sản xuất nhỏ tự nguyện hợp lại với nhau trong lĩnh vực mà họ thấy là cần thiết và ở những quy mô hiệu quả nhất nhằm đạt được hiệu quả cao hơn. 3. Sở hữu tư nhân là vấn đề rất mới trong HP1992 so với HP1980. Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình trong đó có vốn , tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dung. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu của hộ cá thể , tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân. Ở nước ta hiện nay sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một tất yếu khách quan bởi vì lực lượng sản xuất tương ứng với nó còn đầy sức sống thể hiện ở chỗ: nguồn vốn trong nhân dân còn rất lớn chưa được khai thác hết thể hiện ở nhu cầu sản xuất và tiêu dung trong xã hội còn rất bức bách , số lượng lao động chưa có việc làm còn nhiều và mỗi năm còn được bổ sung. Để có cái nhìn khái quát về sở hữu tư nhân ta xem xét các khía cạnh sau: a, Chủ thể của sở hữu tư nhân:là từng cá nhân công dân.Như vậy phạm vi chủ thể của sở hữu tư nhân cũng rất rộng b, Khách thể của sở hữu tư nhân: Được quy định tại điều 58 trong HP1992:”Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở ,tư liệu sinh hoạt , tư liệu sản xuất ,vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác.”Vì vậy khách thể của sở hữu tư nhân bao gồm:vốn , những tư liệu tiêu dung trong sản xuất và sinh hoạt như nông cụ , máy móc, nhà, xưởng…Những tư liệu sản xuất chủ yếu như ruộng đất hầm mỏ ,sông hồ , tài nguyên trong lòng đất…không thể là sở hữu tư nhân. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị. c, Cơ sở pháp lí để hình thành sở hữu tư nhân Sở hữu tư nhân được hình thành bằng nhiều cách khác nhau.Trước hết sở hữu tư nhân được hình thành bằng con đường thu nhập hợp pháp.Bằng sức lao động của cá nhân , hộ cá thể ,xí nghiệp tư doanh có quyền được hưởng những thành quả do lao động của chính mình làm ra.Sở hữu tư nhân còn được hình thành bằng con đường thừa kế , tiết kiệm để dành của cá nhân , hộ cá thể , xí nghiệp tư doanh. d, Hướng phát triển Hình thức sở hữu tư nhân hiện nay còn khá phổ biến và còn tồn tại lâu dài trong nền kinh tế quốc dân.Hướng phát triển cũng khác nhau: Sở hữu tư nhân cũng dần dần được chuyển hoá thành các hình thức sở hữu khác ( sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể ) bằng việc góp vốn để kinh doanh .Và cũng được tăng lên và phát triển bằng việc các doanh nghiệp nhà nước thực hiện việc cổ phần hoá. Tóm lại thực tiễn những năm gần đây đã chứng tỏ việc thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất đảm bảo cho nền kinh tế phát triển . Và việc này có tác dụng giải phóng tiềm năng sản xuất to lớn và có tác dụng hỗ trợ kích thích sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể phát triển.Sự khác nhau giữa việc ghi nhận các hình thức sở hữu trong 2 bản HP năm 1980 và HP năm 1992 càng cho thấy rõ hơn điểm tiến bộ của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường.Hiến pháp nước ta vẫn đang trong quá trình đổi mới hứa hẹn trong tương lai sẽ còn có nhiều quy định tiến bộ về hình thức sở hữu góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thứ tư: Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức và xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng, lành mạnh, năng suất và hiệu quả là hoạt động chủ yếu. Để đạt được điều này thì nhà nước xã hội chủ nghĩa cần thiết phải xây dựng nguyên tắc quản lí của nhà nước cho chính sách phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các nguyên tắc quản lí cảu nhà nước cho chính sách phát triển kinh tế ở mỗi Hiến pháp là có sự khác nhau. Đối với Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 thì sự khác nhau đó được thể hiện như sau: Hiến pháp năm 1980 quy định nguyên tắc quản lí của nhà nước về nền kinh tế như sau: Điều 33: Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất; đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động và tính sáng tạo của các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở và cá nhân, để xây dựng và thực hiện kế hoạc nhà nước; huy động mọi lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất – kỹ thuật của đất nước, bảo đảm nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện, cân đối, vững chắc, với nhịp độ nhanh và hiệu quả cao. Điều 34: Nhà nước tổ chức nền sản xuất xã hội theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quản lí kinh tế; vận dụng đúng đắn các qui luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội; áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo địa phương và vùng lãnh thổ; kết hợp lợi ích của nhà nước, của tập thể và của người lao động; xây dựng và bảo đảm tôn trọng pháp luật kinh tế. Còn Hiến pháp năm 1992 quy định: Điều 26: Nhà nước thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lí nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của nhà nước. - Sự khác biệt thứ nhất được thể hiện ở chỗ: Nhà nước thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Tuy cả Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật nhưng ở Hiến pháp năm 1992 việc dùng pháp luật để quản lí đã được mở rộng ra nhiều lĩnh vực hơn như về quan hệ trong phân phối, quan hệ với các nước, các tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực kinh tế… Cùng với pháp luật, Nhà nước phải có kế hoạch để từng bước ổn định và phát triển nền kinh tế. Kế hoạch của nhà nước ở Hiến pháp năm 1992 đã có sự tuân theo các qui luật phát triển kinh tế 1 cách triệt để hơn, không chủ quan duy ý chí như trong Hiến pháp năm 1980 đã qui định. Hiến pháp năm 1992 đã chỉ rõ kế hoạch của nhà nước chỉ mang tính định hướng, nhà nước lập kế hoạch chung cho cả nền kinh tế chứ không điều chỉnh chi tiết từng bộ phận của nền kinh tế. - Sự khác biệt thứ hai được thể hiện trong việc nhà nước phân công trách nhiệm và phân cấp quản lí giữa các ngành, các cấp 1 cách hợp lí. Hiến pháp năm 1980 tuy đã đề cập tới việc này nhưng rồi nó lại không được chú trọng. Sự phân công trách nhiệm và phân cấp quản lí đã được tiến hành nhưng lại có sự chồng chéo, không rõ ràng . Sự ôm đồm của nhà nước trong việc quản lí nền kinh tế đã dẫn đến nhầm lẫn giữa quản lí nhà nước về kinh tế với quản lí sản xuất, kinh doanh. Đã có sự đổi mới so với trước, Hiến pháp năm 1992 đã cụ thể hơn trách nhiệm giữa các ngành, các cấp cũng như trách nhiệm của tập thể và cá nhân đã được xác định rõ ràng hơn, bớt chồng chéo và tránh để không xảy ra hiện tượng vô hiệu hóa lẫn nhau. Ngoài ra, trách nhiệm của trung ương và trách nhiệm của từng địa phương cũng như trách nhiệm của các cơ quan quản lí tổng hợp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp…) và các cơ quan quản lí ngành (bộ, sở, phòng…) cũng được phân định 1 cách rõ ràng, hợp lí. Đồng thời, nhà nước đã giao quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Các đơn vị kinh tế được quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm về việc bảo toàn và phát triển vốn cũng như toàn bộ hoạt động của mình, làm tròn các nghĩa vụ đối với nhà nước. - Một điểm khác biệt nữa đó là về việc nhà nước giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập thể và nhà nước. Điều 34 Hiến pháp năm 1980 đã đề cập đến việc kết hợp lợi ích của nhà nước, của tập thể và của người lao động, tuy nhiên trong lĩnh vực phân phối sản phẩm của xã hội, lợi ích của người lao động chưa được chú ý thỏa đáng (được xếp vào hàng cuối). Người lao động với tư cách là chủ thể trong sản xuất, kinh doanh không thể nào đem hết khả năng của mình để làm ra nhiều sản phẩm khi mà lợi ích của họ không được đảm bảo, không được quan tâm thỏa đáng. Với chiến lược vì con người, HIến pháp năm 1992 đã có sự thay đổi, đã chú trọng quan tâm đến lợi ích của người người lao động cả về vật chất và tinh thần trong lĩnh vực kinh tế. Lợi ích của người lao động phải đặt lên hàng đầu, đây là đòn bẩy góp phần phát triển kinh tế. Qua đây thấy rõ được bản chất giai cấp của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, luôn lấy lợi ích của nhân dân làm động lực và mục đích của mọi hoạt động. Như vậy rõ ràng Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đã có sự khác biệt nhưng vậy thì nguyên nhân là do đâu? Nguyên nhân chính là do Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của cơ chế cũ – cơ chế tập trung kế hoạch của những nhận thức cũ về chủ nghĩa xã hội. Cơ chế này đã có tác dụng rất to lớn đối với công cuộc chiến thắng thực dân và đế quốc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbài tập nhóm hiến pháp.doc
Tài liệu liên quan