MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
1. DIỆN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT. 2
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân: 5
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống: 7
Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ nuôi dưỡng: 8
2. HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT. 11
Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau: 13
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: 13
Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: 15
Ở hàng thừa kế thứ hai: 16
Quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu: 16
Quan hệ thừa kế giữa anh ruột, chọ ruột với em ruột: 17
Ở hàng thừa kế thứ ba: 17
Quan hệ giữa cụ với chắt 17
Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột với cháu ruột 18
KẾT LUẬN 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2083 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Diện và hàng thừa kế trong loại hình thừa kế theo pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại và phát triển. Bên cạnh sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể là hình thức sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân cũng đã có cơ sở pháp lý để tồn tại và phát triển. Nhằm củng cố hơn nữa sự ổn định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng tộc…để bảo vệ có hiệu quả hơn quyền thừa kế cảu công dân phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội ở nước ta trong thời kí đổi mới, diện những người thừa kế theo pháp luật đã được Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 quy định rộng rãi hơn. Diện những người thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh thừa kế quy định không những có tất cả những người mà Thông tư số 81 hướng dẫn xác định mà còn bao gồm thêm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bang hệ khác, đó là cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột.
Phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được Pháp lệnh thừa kế về thực chất dựa trên quan điểm mang tính truyền thống về quan hệ gia đình Việt Nam là: “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người đó. Lợi ích của mỗi thành viên trong một gia đình, một dòng tộc luôn được pháp luật của nước ta coi trọng và bảo đảm thực hiện trong mối quan hệ với lợi ích của toàn xã hội, khi mà tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngày càng phong phú về chủng loại và tăng cao về giá trị. Những quan hệ giữa người để lại di sản và những người thuộc phạm vi được thừa kế theo quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống va quan hệ nuôi dưỡng. Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật là người có một hoặc đồng thời hai mối quan hệ với người để lại di sản trong phạm vi ba mối quan hệ trên và được thể hiện cụ thể:
Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật có mối quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Hay người đó có mối quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Hay người đó có mối quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Ba mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản với người thừa kế chỉ là những căn cứ xác định diện những người thừa kế theo pháp luật. Phạm vi những người có quan hệ huyết thống gần, có quan hệ huyết thống xa (tính theo đời và theo thứ bậc bề trên, bề dưới) với người để lại di sản có thuộc diện hay không thuộc diện thừa kế còn tùy thuộc vào những quy định của pháp luật trong giai đoạn lịch sử khác nhau.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân:
Theo quy định tại khoản 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Tại khoản 2 của Điều luật nói trên còn quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Quan hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng cho đến thời điểm mở thừa kế phải được xác định là hôn nhân hợp pháp. Như vậy, quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn đã tuân thủ các điều kiện và thủ tục pháp luật quy định: về độ tuổi kết hôn, ý chí tự do, tự nguyện kết hôn, tự do thỏa thuận không áp đặt ý chí của một bên đối với bên kia trong kết hôn, không vi phạm quan hệ huyết thống, không vi phạm chế độ một vợ một chồng và không vi phạm các điều cấm khác của pháp luật trong kết hôn như giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng, giữa những người cùng giới tính. Người mất năng lực hành vi không được kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng kí và do cơ quan nhà nước có hầm quyền thực hiện theo nghi thức tổ chức đăng kí kết hôn. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau, khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc nhận di sản của nhau được bảo vệ bằng pháp luật. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân được xác lập thông qua việc đăng kí kết hôn. Thủ tục đăng kí kết hôn đều được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đang có hiệu lực thi hành.
Tuy nhiên, ngoài việc xác định một quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật thì trong những giai đoạn lịch sử nhất định vẫn cân thiết phải đánh giá đúng mức những quan hệ hôn nhân măc dù không tiến bộ, trái với pháp luật hiên hành nhưng vẫn tồn tại và được thừa nhận ở nước ta như giải pháp giả quyết những tàn dư của chế độ thực dân phong kiến còn sót lại. Để gải quyết vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 690_DS ngày 29/4/1960 hướng dẫn xử lý việc ly hôn và các vấn đề có liên quan đến việc ly hôn vì chế đọ đa thê. Nhằm từng bước xóa bỏ những tàn dư như vậy của chế độ cũ, pháp luật của nhà nước ta đã xác định giới hạn đình chỉ những quan hệ hôn nhân trái với pháp luật hiện hành: quan hệ hôn nhân của vợ chồng xác lập trước ngày 13/01/1960 (ở miền Bắc) và trước ngày 25/3/1977 (ở miền Nam) tuy có vi phạm chế độ một vợ, một chồng nhưng vẫn tồn tại và được coi là không trái pháp luật. Theo quy định trên, khi chồng chết các người vợ được thừa kế của chồng hoặc khi các người vợ chết trước thì chồng được thừa kế của các người vợ. Một vấn đề nữa được đặt ra là hôn nhân thực tế, hôn nhân thực tế được tòa án thừa nhận cũng được coi là hôn nhân hợp pháp. Vấn đề hôn nhân thực tế được thừa nhận ở nước ta chỉ là một giải pháp tình thế nhằm giải quyết những vấn đề về con chung của vợ chồng, vấn đề tài sản của vợ chồng, vấn đề thừa kế di sản nhằm bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng của công dân nhất là bảo vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em. Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài sản chung hay con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ. Quan hệ vợ chồng chưa đăng kí mà được xác lập trước ngày 03/01/1987 thì việc đăng kí kết hôn không bị hạn chế về thời gian. Nhưng nếu nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 03/01/1987 đến 01/01/2001 mà có đủ điều kiện đăng kí kết hôn theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống:
Pháp luật về hôn nhân và gia đình luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ của con. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự, theo quy định của pháp luật họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau vì giữa họ với cha đẻ, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống. Cha đẻ, mẹ đẻ của con dù là con trong giá thú hay con ngoài giá thú (về hậu quả pháp lý do pháp luật quy định để có cơ sở xác định con chung của vợ, chồng hay con của người cha, người mẹ không phải là vợ chồng sinh ra đều là những người có quan hệ huyết thống với con) đều có quan hệ huyết thống. Do vậy, cha đẻ, mẹ đẻ, với các con đẻ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Việc xác định cha mẹ là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi người con và là danh dự uy tín của mỗi người trong xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định về quyền xin xác nhận cha, mẹ của con và quyền xin xác nhận con của cha, mẹ là nhằm bảo vệ những quyền dân sự chính đáng của công dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản. Quan hệ huyết thống được xác định giữa cha và con thì lợi ích của người con được bảo đảm trong việc thừa kế tài sản của bố đẻ, khi người bố chết. Xác định quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và các con là việc làm quan trọng. Mục đích của việc xác định quan hệ huyết thống là nhằm bảo vệ những quyền lợi tài sản và lợi ích nhân thân của cá nhân với quan điểm mỗi người sinh ra đều phải có cha, có mẹ là cội nguồn của mối quan hệ ruột thịt, là căn cứ để xác định nghĩa vụ và quyền lợi của các thành viên trong quan hệ gia đình. Việc xác định cha, mẹ, con (xác định huyết thống) không những là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ gia đình mà còn là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa cha, mẹ và các con trong trường hợp một người chết. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản, có ba nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất: Những người có quan hệ huyết thống với người chết thuộc trực hệ (quan hệ huyết thống nghành dọc) bề trên (tôn thuộc) bao gồm: cụ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ, của người để lại di sản.
Nhóm thứ hai: Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc trực hệ bề dưới (ty thuộc) của người để lại di sản bao gồm: các con đẻ (bao gồm cả con trong giá thú, con ngoài giá thú), các cháu nội, cháu ngoại, chắt của người để lại di sản.
Nhóm thứ ba: Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc bàng hệ (quan hệ huyết thống ngành ngang) gồm anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha của người để lại di sản.
Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ nuôi dưỡng:
Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi mình; con có nghĩa vị kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Nếu những người trong quan hệ huyết thống mà vi phạm nghĩa vị theo pháp luật là vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục nhau giữa những người có quan hệ huyết thống là căn cứ vào điều kiện có thể nuôi dưỡng nhưng đã vi phạm. Người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại tài sản đã bị tòa án kết án bằng bản án có giá trị pháp lý, người đó bị tước quyền thừa kế theo pháp luật.
Quan hệ nuôi dưỡng còn được thể hiện giữa anh, chị, em ruột đối với nhau trong hoàn cảnh mồ côi cha, mẹ hoặc cha, mẹ còn nhưng không có khả năng lao động hoặc đều không có năng lực hành vi dân sự.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại: Ngoài nghĩa vụ nuôi dưỡng, cháu và ông bà còn là người giám hộ đương nhiên của nhau và đồng thời cũng có nghĩa vụ đại diện pháp luật cho nhau. Pháp luật còn quy định, trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, trong trường hợp cháu không có anh, chị, em ruột đã trưởng thành để có thể thực hiện được việc chăm sóc, giáo dục nhau thì ông bà nội, ông bà ngoại có nhiệm vụ nuôi dưỡng cháu. Về phía cháu, cũng có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại. Như vậy, giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau và họ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.
Quan hệ giữa cha kế và mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng. Theo quy định của pháp luật thì giữa người con riêng với cha kế, mẹ kế đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ được thừa kế theo pháp luật của nhau. Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng chung sống với mình và đã thực hiện được nghĩa vụ của người cha, người mẹ đối với con thì theo quy định của pháp luật họ thuộc diện thừa kế của nhau. Nếu con riêng của vợ, của chồng mà chết trước cha kế, mẹ kế, con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế khi qua đời. Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau mà còn được thừa kế theo quy định tại điều 679 và 680 của Bộ Luật Dân sự. Trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng muốn nhận nuôi con nuôi thì phải có sự đồng ý của cả vợ, chồng; nếu chỉ vợ hoặc chồng nhận nuôi con nuôi mà không được người kia đồng ý thì quan hệ cha nuôi, mẹ nuôi không được xác lập. Trong thực tế xảy ra trường hợp nhận nuôi con nuôi nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và không ghi vào sổ hộ tịch. Con nuôi thực tế và người nuôi có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau trong quan hệ cha, mẹ với con thì họ thuộc diện thừa kế theo háp luật của nhau. Quyền và lợi ích của người con nuôi thực tế với quyền và lợi ích của người làm cha nuôi, mẹ nuôi trong quan hệ thừa kế tài sản của nhau tương tự như cha con, mẹ con. Theo nguyên tắc thì quan hệ giữa con nuôi thực tế với cha nuôi, mẹ nuôi không vi phạm những điều kiện nhận con nuôi mà chỉ vi phạm thủ tục nhận con nuôi thì họ có quan hệ cha con, mẹ con. Con nuôi thực tế được Tòa án thừa nhận.
Đối với chú, bác, cô, dì, cậu ruột của các cháu và các cháu gọi người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột luật không quy định họ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau. Nhưng pháp luật lại quy định họ được thừa kế của nhau theo trình tự hàng. Quy định này dựa trên quan hệ huyết thống giữa cháu với chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người chết và những người gọi người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột.
Tóm lại, diện thừa kế theo pháp luật bao gồm những cá nhân còn sống có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra mà còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế theo huyết thống được xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Diện thừa kế không bao gồm người không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
2. Hàng thừa kế theo pháp luật.
Sau khi đã xác định phạm vi những người có quyền thừa kế theo pháp luật dựa trên ba mối quan hệ giữa người thuộc diện thừa kế với người để lại di sản. Di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân thích của người đó. Tuy nhiên, trong số những người thân thích đó thì mức độ gần gũi, thân thích của mỗi người đối với người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có cùng một mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng được hưởng di sản của người đó. Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng d sản của người chết để lại. Như vậy, theo quy định của pháp luật không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều được hưởng thừa kế cùng một lúc. Để những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết, pháp luật về thừa kế đã xếp những người đó theo trình tự nhóm khác nhau. Mỗi một nhóm đó được gọi là một hàng thừa kế theo pháp luật.
Vậy hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.
Để đảm bảo hơn nữa về quyền thừa kế của mọi chủ thể nói chung và của mọi cá nhân nói riêng, Pháp lệnh thừa kế và hơn nữa Bộ luật Dân sự 1995 đã xác định diện những người thừa kế theo pháp luật với một phạm vi rộng hơn. Vì vậy, số lượng hàng thừa kế theo pháp luật cũng nhiều hơn so với các văn bản pháp luật vê thừa kế trước đó. Điều 25 của pháp lệnh Thừa kế và Điều 679 Bộ luật Dân sự 1995 đã quy định ba hàng thừa kế như sau:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột.
Theo quy định trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người thừa kế của cháu ở hàng thừa kế thứ hai nhưng cháu không thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông bà. Tương tự như vậy, cụ nội, cụ ngoại là người thừa kế của chắt ở hàng thừa kế thứ ba nhưng chắt không thuộc hàng thừa kế thứ ba của các cụ. Sở dĩ các nhà làm luật không đưa cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông, bà, không đưa chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ là vì muốn để cho cháu hưởng di sản của ông bà, chắt hưởng di sản của các cụ theo chế độ thừa kế thế vị trong trường hợp cha, mẹ của cháu và cha, mẹ của chắt chết trước ông, bà, các cụ. Khi ban hành bộ Luật Dân sự 1995, các nhà làm luật cho rằng dù có xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của ông, bà thì theo trình tự cháu vẫn không được hưởng di sản của ông, bà nếu cha, mẹ cháu vẫn còn sống vào thời điểm ông, bà chết. Nếu cha, mẹ cháu chết trước ông, bà thì cháu đã được hưởng di sản của ông, bà theo chế độ thừa kế thế vị. Vì thế, sẽ là thừa nếu xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông, bà, chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ. Tuy nhiên, cách hiểu này và quy định trên đã bộc lộ sự thiếu sót và đã được bổ sung trong bộ Luật Dân sự năm 2005. Về hàng thừa kế theo pháp luật, điều 676 Bộ Luật Dân sự 2005 quy định như sau:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, về cơ bản thì Bộ Luật Dân sự 2005 giữ lại quy định của Bộ Luật Dân sự 1995 về hàng thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, có bổ sung thêm cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà, chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ. Sự bổ sung này là cần thiết trong việc bảo vệ quyền hưởng di sản của cháu đối với di sản của ông, bà và quyền hưởng di sản của chắt đối với di sản của các cụ trong một số trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, cha của cháu là người thừa kế theo luật duy nhất của ông, bà nhưng lại là người không được quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643. Nếu không có bổ sung này thì trong trường hợp đó cháu sẽ không được hưởng thừa kế di sản mà ông bà để lại vì cháu không thuộc hàng thừa kế nào của ông, bà và thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi cha, mẹ chết trước ông, bà và không bị tước quyền thừa kế.
Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau:
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng:
Vợ - chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”, “thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất và ngược lại, khi bên kia chết thì bên này là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Mặ khác, cũng tại Điều 8 của luật trên còn quy định “kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Vì thế, vợ - chồng được thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào thời điểm mở thừa kế mà quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại. Khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường hợp sau đây:
Vợ, chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn, sau đó một bên chết thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại. Do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Vợ chồng đã sống ly thân và về mặt tình cảm hầu như tình yêu giữa họ đã không còn nhưng vì một lý do tế nhị nào đó nên họ không ly hôn thì dù mặt tình cảm không còn nhưng về mặt pháp lý, hôn nhân giữa họ vẫn đang tồn tại. Vì vậy, người còn sống vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Khi một bên chết, dù người còn sống đang chung sống với người khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được Tòa án cho ly hôn hoặc đã được Tòa án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì bên còn sống vẫn được thừa kế di sản của người chết.
Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đó đều được tiến hành trước 13/01/1960 ở miền Bắc và trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam thì khi người chồng chết trước tất cả các người vợ (nếu còn sống vào thời điểm người chồng chết) đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng. Ngược lại, chồng là người thừa kế thứ nhất của những người vợ đã chết trước người chồng đó.
Nếu cán bộ, chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra Bắc, lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng khi người chồng chết trước, và ngược lại khi những người vợ chết trước người chồng thì người chồng là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người vợ đã chết.
Đối với các trường hợp hôn nhân không đăng kí kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhận và do vậy họ là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước ngày luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực pháp luật mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệ lực pháp luật thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng theo hôn nhân nên vẫn là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con:
Quan hệ thừa kế giữa một bên là cha, mẹ với một bên là con cũng là quan hệ thừa kế mang tính chất hai chiều. Quan hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì đó là những người có cùng một dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đo, cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, cha, mẹ của người do mình sinh ra dù trong hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và ngược lại, người con trong hay ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản do cha, mẹ mình để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng thì đó là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha – con, mẹ - con hoặc theo cha, mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là người đã nhận người đó làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật. Cha nuôi, mẹ nuôi là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi người con nuôi đó chết và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết.
Trong trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con nuôi khi người con nuôi đó chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con đẻ khi người con đẻ đó chết. Ngược lại, một người đang là con nuôi của người khác thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ đẻ khi cha, mẹ đẻ chết.
Đối với trường hợp người nhận nuôi con nuôi không đăng kí việc nhận con nuôi theo đúng quy định của phap luật thì cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau khi được công nhận là nuôi con nuôi thực tế.
Hàng thừa kế thứ nhất còn có thể được bổ sung thêm người thừa kế là con riêng và cha kế, mẹ kế được thừa kế theo pháp luật của nhau khi một bên chết trước. Căn cứ để xác định quyền thừa kế theo pháp luật giữa con riêng với cha kế, mẹ kế nếu họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế theo pháp luật của nhau. Do vậy, con riêng và cha kế, mẹ kế không phải là người đương nhiên thừa kế theo pháp luật của nhau mà có cơ sở để xác định được thừa kế theo pháp luật của nhau là quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con.
Ở hàng thừa kế thứ hai:
Quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu:
Theo điểm b khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 thì căn cứ để xác định mối quan hệ này là hoàn toàn dực vào quan hệ hu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ dân sự- Diện và hàng thừa kế theo pháp luật.doc