Tiểu luận Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU . . 2

NỘI DUNG .2

1.Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX . 2

2.Quê hương và gia đình .6

3.Thời đại .8

KẾT LUẬN .11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .13

 

 

 

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4996 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU….…………………………….................................... 2 NỘI DUNG……………………………………………......................2 1.Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ................................................. 2 2.Quê hương và gia đình……………………………….....................................6 3.Thời đại……………………………………………........................................8 KẾT LUẬN………………………………………….....................................11 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………....13 LỜI MỞ ĐẦU Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta vượt qua muôn trùng khó khăn để đi đến những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc.Vậy tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở nào? Nó được hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử-xã hội cụ thể của dân tộc và thời đại mà Người đã sống và hoạt động. NỘI DUNG Điều kiện lịch sử-xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí ở Minh được xét trên ba phương diện sau: 1.Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Đầu thế kỷ XIX,Nguyễn Ánh với sự giúp đỡ của Pháp đã đánh bại triều Tây Sơn, lập lên triều Nguyễn. Suốt thế kỷ XIX,xã hội Việt Nam là một xã hội phong kiến, bảo thủ.Các vua triều Nguyễn từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức không chú ý đến vấn đề phát triển kinh tế, công thương nghiệp và củng cố quốc phòng để đối phó với nguy cơ xâm lược từ bên ngoài; vẫn thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động: tăng cường áp bức bóc lột ở bên trong và bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài.Về kinh tế vẫn duy trì nền nông nghiệp lạc hậu làm chủ yếu. Triều đình không quan tâm, mở các trường đào tạo khoa học, kỹ thuật, kinh tế. Những đề án cải cách, canh tân đất nước của nhiều nhà tư tưởng đương thời đều bị cự tuyệt nên đã không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt kịp với sự phát triển của thế giới, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản ở châu Âu. Hệ tư tưởng phong kiến triều Nguyễn lấy Nho giáo làm nòng cốt đã trở nên bất cập, không đủ sức soi sáng cho vấn đề cơ bản liên quan đến sự nghiệp kháng chiến cứu nước của dân tộc ta. Như vậy, triều Nguyễn đã không chuẩn bị tiềm lực vật chất, tinh thần, những thế mạnh của dân tộc để có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, chống lại kẻ thù bên ngoài. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào bán đảo Sơn Trà, bắt đầu tiến hành xâm lược nước ta. Từ đây, xã hội Việt Nam có sự thay đổi. Lực lượng thống trị xã hội là vua quan triều đình nhà Nguyễn chống cự Pháp yếu ớt rồi từng bước nhường bộ, chia cắt lãnh thổ cho chúng, từ quan điểm chủ chiến chuyển sang quan điểm chủ hòa, rồi cuối cùng cam chịu đầu hàng để bảo toàn lợi ích riêng của mình. Chúng lý giải việc nước ta trở thành thuộc địa của Pháp là vận mệnh của lịch sử nhưng thực chất lý do là sự bảo thủ, bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn- những người đứng đầu nhà nước nhưng lại trao đất nước của mình cho quân xâm lược một cách dễ dàng.Để rơi vào cảnh mất nước, trách nhiệm đó trước hết thuộc về bọn vua quan nhà Nguyễn. Dân tộc Việt Nam trong quá khứ đã từng phải đọ sức với những kẻ thù hùng mạnh hơn thế gấp nhiều lần nhưng đều giành thắng lợi vẻ vang. Bởi nhân dân ta luôn phát huy cao độ truyền thống yêu nước,ý thức dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc .Nếu những người cầm quyền sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, trong dựa vào sức dân, ngoài cải thiện bang giao, phát triển kinh tế đất nước, tập trung sức mạnh của cả dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ đất nước thì không chỉ thực dân Pháp mà bất kì kẻ thù xâm lược nào cũng không thể đặt chân lên nước ta.Chính sự bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn đã khiến cho nhân dân ta phải chịu cảnh mất nước, phải chống “cả Triều lẫn Tây”. Những phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp của quần chúng nhân dân khắp ba miền lần lượt xuất hiện và lan rộng, như phong trào đấu tranh của Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích…ở Bắc Bộ; Đặng Như Mai, Trần Tấn, Phan Đình Phùng…ở Trung Bộ; Trương Định, Nguyễn Trung Trực…ở Nam Bộ. Những phong trào này đã ghi lại lịch sử vẻ vang của dân tộc, thúc đẩy tinh thần yêu nước nhiệt thành, chí căm thù giặc sục sôi trong quần chúng nhân dân. Song cuối cùng các phong trào này đều thất bại vì chưa có đường lối rõ ràng, lãnh đạo các phong trào này là các văn thân sĩ phu còn mang nặng hệ tư tưởng phong kiến, nặng tư tưởng tôn quân. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa ở nước ta.Việt Nam trở thành nước nửa phong kiến nửa thuộc địa, xã hội bắt đầu có sự phân hóa.Giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện.Bên cạnh “Tân thư”, “Tân văn”... cùng với các cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc tác động trực tiếp vào Việt Nam.Có thể coi tư tưởng canh tân là bước tiến mới của ý thức dân tộc.Nó đã xuyên qua hệ tư tưởng phong kiến triều Nguyễn vươn mình lên tìm một hệ tư tưởng mới, khoa học và cách mạng đủ sức đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp giải phóng dân tộc.Giữa lúc những trí thức Nho học yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh...đang tìm con đường mới cho cách mạng nước nhà thì tân thư ào ạt đi vào đất nước và lập tức được đón nhận.Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục Hội,...Tuy có đánh dấu một bước tiến về chất so với hệ tư tưởng phong kiến và Nho giáo nhưng vì chưa lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân, còn gắn với hệ tư tưởng tư sản-hệ tư tưởng đã trở nên lỗi thời, lạc hậu ở phương Tây và còn nhiều hạn chế do các sĩ phu phong kiến truyền bá nên đều thất bại. Cũng vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta.Trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa(12/1907), cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn áp(4/1908), vụ đầu độc Hà thành bị thất bại(6/1908), căn cứ nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá(1/1909), phong trào Đông Du tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước Nhật(2/1909), các lãnh tụ của phong trào Duy Tân người bị đưa lên máy chém( Trần Qúy Cáp, Nguyễn Hằng Chi...) người bị đày ra Côn Đảo( Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế...).Tình hình đó cho thấy phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng mới. 2.Quê hương và gia đình Vào thời kỳ đó, trên quê hương Nghệ Tĩnh, Nguyễn Tất Thành sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước và trưởng thành trong phong trào quần chúng giàu truyền thống cách mạng.Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc-thân phụ Người là một nhà nho cấp tiến,có lòng yêu nước thương dân sâu sắc.Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt gian khổ, đặc biệt là tư tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn trong mọi hoạt động chính trị-xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc đối với hình thành nhân cách Nguyễn Tất Thành. Quê hương xứ Nghệ-mảnh đất miền Trung giàu truyền thống yêu nước,bất khuất, kiên cường trong đấu tranh chống xâm lược là nơi sinh ra những anh hùng của đất nước: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung...thời cận đại thì có Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.Kim Liên với những anh hùng liệt sĩ: Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến...Các chị và anh Nguyễn Tất Thành đều tham gia hoạt động yêu nước chống thực dân Pháp, đều bị bắt và bị lưu đày.Người thanh niên Nguyễn Tất Thành khi đó đã chứng kiến tận mắt hai bức tranh hiện thực trong xã hội đương thời: một bức tranh là cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột,đày đọa của nhân dân mình, của đồng bào mình;một bức là cuộc sống xa hoa, trụy lạc cùng những tội ác dã man của bọn thực dân và thái độ hèn nhát, bạc nhược của vua quan triều Nguyễn.Nguyễn Tất Thành được học trường Pháp ở Huế nên đã bước đầu tiếp cận với những giá trị văn hóa phương Tây.Cùng với đó là những kinh nghiệm đầu tiên trong hoạt động yêu nước thông qua thực tiễn(phong trào chống thuế ở Huế năm 1908, dạy học ở trường Dục Thanh-Phan Thiết trong phong trào Duy Tân ), qua những bài học thành, bại rút ra từ các cuộc đấu tranh chống Pháp của dân tộc đã tác động không nhỏ tới Hồ Chí Minh. Chính những điều đó đã ảnh hưởng và nuôi dưỡng lý tưởng yêu nước cách mạng của Nguyễn Tất Thành ngay từ đầu và theo suốt quá trình cách mạng, là cơ sở thực tiễn hình thành nhân sinh quan Hồ Chí Minh.Ở Người, tư tưởng yêu nước thương dân, cảm thông với nỗi khổ đau của nhân dân, của đồng bào luôn luôn có sự gắn bó chặt chẽ không thể tách rời.Chính điều đó đã thôi thúc Người nung nấu ý chí, quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Và Người đã quyết định sang nước Pháp, và từ Pháp đến các nước khác xem họ làm như thế nào, học tập rồi trở về giúp đồng bào mình.Đây chính là điểm khác biệt cơ bản của Người so với những con đường mà các bậc tiền bối đã đi trước đó.Việc Hồ Chí Minh xác định mục đích và lựa chọn hướng đi sang phương Tây để tìm đường cứu nước là bước phát triển nhận thức quan trọng đầu tiên trong tư tưởng Hồ Chí Minh. 3.Thời đại Sẽ là không đầy đủ nếu nói những điều kiện lịch sử-xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ gồm yếu tố xã hội và truyền thống của quê hương và gia đình,bởi Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị vào lúc thế giới xảy ra rất nhiều sự kiện quan trọng.Những sự kiện này tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Người và góp phần hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ cuối thế kỷ XIX,chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và có tính chất quốc tế.Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì bành trướng xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa. Lúc này mỗi thuộc địa là một mắt khâu của hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Phong trào giải phóng dân tộc không còn là hành động riêng lẻ của mỗi nước mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa và gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới.Nhân dân các dân tộc ở thuộc địa muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thì phải liên kết lại với nhau cùng đấu tranh, phải gắn liển với đấu tranh của giai cấp vô sản bởi đây là giai cấp tiên tiến, có khả năng lãnh đạo phong trào đi đến thắng lợi. Năm 1914, chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này đã gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước, đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc tăng lên. Năm 1919,sau khi chiến tranh thứ nhất kết thúc,các nước thắng trận và bại trận họp “Hội nghị hòa bình” tại Vecxây. Nước Pháp cũng là một trong những nước thắng trận. Tại Hội nghị này, bên cạnh các đoàn đại biểu chính thức, còn có đại diện các dân tộc bị áp bức đến dự để yêu cầu độc lập và tự do cho dân tộc mình như: Aixơlen, Ấn Độ, Triều Tiên…Khi đó người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Pháp đã tự tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước và lấy danh nghĩa đại diện cho tổ chức này đến Hội nghị Vecxây.Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến Hội nghị “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gồm tám điểm rất ôn hoà, yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ cơ bản tối thiểu cho nhân dân Việt Nam như: tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do hội họp, tự do học tập…Đó là tiếng nói bảo vệ chính đáng quyền lợi của dân tộc Việt Nam, của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới.Bản yêu sách đã gây được tiếng vang lớn trong nhân dân ta, cũng như nhân dân Pháp và các thuộc địa của Pháp, nhưng nó đã không được chấp nhận. Sự thật ấy đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận rõ hơn bản chất của chế độ dân chủ tư sản với những khẩu hiệu tự do,bình đẳng… của nó.Từ đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận quan trọng rằng không thể trông cậy vào các nước khác, “muốn được giải phóng , các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Cũng trong khoảng thời gian này, năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi.Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở đầu một thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.Cùng với đó là việc Nhà nước Xôviết non trẻ đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc và giải quyết xong vấn đề nội chiến.Những sự kiện này đã làm thay đổi cục diện chính trị thế giới, lợi thế nghiêng về phía nước Nga, về phong trào vô sản trên thế giới.Bầu không khí chính trị các nước châu Âu trở nên sôi động, nhất là ở Pháp. Nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng vô sản toàn thế giới. Từ năm 1919, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tồn tại đồng thời hai Quốc tế cộng sản: Quốc tế II và Quốc tế III. Với việc bóc trần chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II, Lênin đã kêu gọi các Đảng của các nước gia nhập Quốc tế III.Trước tình hình đó, trong Đảng Xã hội Pháp đã nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa những người muốn ở lại Quốc tế II-“cánh hữu” và những người tán thành Quốc tế III-“cánh tả”.Những sự kiện đó đã khiến người suy nghĩ rất nhiều, tác động mạnh đến tiến trình nhận thức và chuyển biến tư tưởng của Người. Tháng 7/1920, Báo Luymanite(L’Humanité) đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin.Khi đọc Luận cương này Người tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.Ngồi một mình trong phòng kín mà Người nói to lên như nói trước quần chúng “Hỡi đồng bào bị đày đọa đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.Đây có thể coi là một bước ngoặt trong sự phát triển về nhận thức lý luận của Hồ Chí Minh.Khi đọc những văn kiện này, mặc dù chưa thực sự hiểu hết các vấn đề mà Lênin đã viết nhưng Người lập tức nhận ra con đường chân chính để giải phóng dân tộc mình.Nguyễn Ái Quốc đã sơ bộ kết luận chủ nghĩa tư bản, đế quốc ở đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng bị áp bức bóc lột, đày đọa.Nhận thức của Người cũng có sự chuyển biến: từ quan hệ áp bức dân tộc đến quan hệ áp bức giai cấp; từ quyền của các dân tộc sang quyền của con người; xác định kẻ thù của các dân tộc thuộc địa là chủ nghĩa đế quốc, bạn đồng minh là nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Tại đại hội Tua(12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những Đảng viên đầu tiên của tổ chức này-chính đảng duy nhất ở Pháp bảo vệ, đồng tình với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức. Giai đoạn này đánh dấu sự phát triển vượt bậc thế giới quan của Hồ Chí Minh: từ lập trường dân tộc sang lập trường giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.Từ đó chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc có bước nhảy vọt về chất dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin.Đây là giai đoạn có ý nghĩa vạch đường cho cách mạng Việt Nam. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ trí tuệ lớn của Người với trí tuệ dân tộc và trí tuệ thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là ngọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Những điều kiện lịch sử-xã hội lúc bấy giờ là cơ sở, là điểm tựa hình thành và hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh-ngọn đuốc soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng. Đây là hệ tư tưởng không chỉ có ý nghĩa đối với lịch sử mà còn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày nay và mai sau.Chính vì vậy, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết để tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giaó trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003. 2.Bộ giáo dục và đào tạo, Giaó trình tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, 2009 3.Nguyễn Khánh Bật(chủ biên), Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998. 4.Nguyễn Mạnh Tường(chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh- Một số nhận thức cơ bản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009. 5.Nguyễn Mạnh Tường, Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐiều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.doc
Tài liệu liên quan