Đăng kí chào báo chứng khoán ra công chúng
Đây là bước khởi đầu mà bất cứ chủ thể nào muốn chào bán chứng khoán ra ngoài công chúng đều phải trải qua và là dấu hiệu đặc trưng cho phép phân biệt giữa chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Tuy nhiên khoản 2 điều 3 LCK cũng quy định những trường hợp mà chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng được miễn đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng gồm: Chính phủ; tổ chức tài chính quốc tế được chính phủ Việt Nam chấp nhận; Doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần; chủ thể chào bán chứng khoán theo bản án, quyết định của Tòa án; chủ thể chào bán chứng khoán là người quản lý người được nhận tài sản trong các trường hợp phá sản hoặc mất khả năng thanh toán.
Theo LCK hiện nay để thực hiện việc đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng tổ chức phát hành sẽ lập hồ sơ đăng kí chứng khoán ra công chúng gửi UBCKNN, Điều 14 LCK quy định tùy thuộc vào từng loại chứng khoán sẽ phát hành mà chủ thể phát hành phải hoàn tất những bộ hồ sơ khác nhau.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5255 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng được xây dựng có phân biệt giữa công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ti cổ phần và doanh nghiệp thành lập mới, thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; giữa chào bán chứng khoán trong nước và chào bán chứng khoán ra nước ngoài.
Ngoài ra theo Nghị định 84/2010/NĐ-CP mới ban hành thì tổ chức phát hành phải mở một tài khoản riêng biệt tại một ngân hàng thương mại để phong toả số tiền thu được từ đợt chào bán. Trường hợp tổ chức phát hành là ngân hàng thương mại thì phải lựa chọn một ngân hàng thương mại khác để phong tỏa số tiền thu được từ đợt chào bán. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về kết quả chào bán kèm theo xác nhận của ngân hàng thương mại nơi mở tài khoản phong toả về số tiền thu được từ đợt chào bán. Sau khi gửi báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tổ chức phát hành được giải toả số tiền thu được từ đợt chào bán.
1.1 Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng
Đối với những doanh nghiệp muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng, cần thỏa mãn ba điều kiện có liên quan tới vốn, tới kết quả kinh doanh và tới dự định huy động vốn cũng như kế hoạch sử dụng vốn huy động của doanh nghiệp.
Thứ nhất, doanh nghiệp muốn chào bán cổ phiếu phải là doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, thể hiện ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm mà doanh nghiệp phải thỏa mãn là mười tỉ đồng Việt Nam, tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán.
Khi thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam mới ra đời, theo Nghị định của Chính phủ số 48/1998/NĐ-CP), mức vốn điều lệ tối thiểu của tổ chức muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng phải đạt 10 tỉ đồng Việt Nam. Tuy nhiên, do số lượng hàng hóa (chứng khoán) lưu hành trên thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam khi đó quá nhỏ bé và có xu hướng tăng chậm trong vài năm sau khi Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh ra đời, đã có nhiều ý kiến cho rằng cần hạ thấp yêu cầu về mức vốn điều lệ đã góp của tổ chức phát hành xuống 5 tỉ nhằm thúc đẩy tăng trưởng chủng loại hàng hóa được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, khi Nghị định số 144/2003/NĐ-CP được ban hành, con số này đã được giảm xuống mức 5 tỉ đồng Việt Nam.
Hiện nay, một mặt, do các doanh nghiệp Việt Nam đã lớn mạnh cả về số lượng và về năng lực tài chính; mặt khác, do chủng loại hàng hóa trên thị trường giao dịch chứng khoán cũng đã phong phú hơn trước, quy định về mức vốn điều lệ mà các doanh nghiệp phải thỏa mãn để được chào bán cổ phiếu ra công chúng lại được nâng lên trong LCK so với mức vốn điều lệ quy định trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP trước đây.
Thứ hai, doanh nghiệp có nhu cầu chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả.
Điều đó phải được thể hiện cụ thể ở kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đó vào năm liền trước năm đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp dự định chào bán cổ phiếu được xem xét trên cả hai phương diện: một là năm liền kề trước đó doanh nghiệp phải có lãi; và hai là doanh nghiệp không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán cổ phiếu. Điều kiện không có lỗ lũy kế là điểm mới của LCK so với Nghị định số 144/2003/NĐ-CP. Trước đây, điều kiện về kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp đăng kí phát hành phải thỏa mãn theo Nghị định số 144/2003/NĐ-CP đơn giản hơn, chỉ bao gồm phương diện thứ nhất của kết quả kinh doanh quy định trong LCK. Như vậy, LCK đã khắt khe hơn khi đưa ra điều kiện về kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp đăng kí phát hành cổ phiếu ra công chúng phải thỏa mãn vì Luật vẫn tiếp tục kế thừa điều kiện kinh doanh hiệu quả ghi nhận trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP nhưng đồng thời quy định thêm điều kiện doanh nghiệp phải không có lỗ lũy kế.
Điểm mới này của LCK thể hiện sự quan tâm đặc biệt của các nhà làm luật đối với sự an toàn của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Quy định này sẽ góp phần đảm bảo rằng doanh nghiệp phát hành có khả năng đem lại thu thập thỏa đáng cho các cổ đông tương lai. Việc đảm bảo hiệu quả cho đồng vốn đầu tư của các nhà đầu tư sẽ góp phần củng cố lòng tin của các nhà đầu tư tiềm năng vào thị trường chứng khoán, từ đó càng thu hút được đông đảo các nhà đầu tư bỏ vốn vào thị trường này.
Thứ ba, doanh nghiệp dự định chào bán cổ phiếu ra công chúng phải dành được sự chấp thuận của đại hội cổ đông về phương án phát hành cổ phiếu và phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng
Điều kiện này được đặt ra nhằm đảm bảo đại hội cổ đông của doanh nghiệp phát hành thực hiện được quyền quyết định định hướng phát triển của doanh nghiệp đã được quy định trong Luật doanh nghiệp. Trước đây, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP chỉ yêu cầu doanh nghiệp đăng kí phát hành có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu mà chưa quan tâm đúng mức tới quyền của cổ đông trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Hiện nay, LCK đã thể hiện sự nhất quán với Luật doanh nghiệp bằng cách thừa nhận quyền quyết định tối cao của đại hội cổ đông đối với phương án huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra, về điều kiện chào bán cổ phiếu thì chúng ta cần phải lưu ý tới điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của một số loại hình doanh nghiệp được quy định trong Điều 4 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của LCK.
Theo đó, đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần kết hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng thì thực hiện theo quy định của pháp luật về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần kết hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng thì phải thỏa mãn điều kiện sau: đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều 12 LCK; Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh thông qua; Có công ty chứng khoán tư vấn trong việc lập hồ sơ chào bán cổ phiếu. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển đổi thành công ty cổ phần thì phải đáp ứng các điều kiện sau:các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 12 LCK; Đáp ứng điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 Nghị định 14/2007/NĐ-CP.
Đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đây là doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thuộc đề án phát triển kinh tế - xã hội của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên việc chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng cần đáp ứng 4 điều kiện. Cụ thể là: Có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Có cam kết chịu trách nhiệm liên đới của Hội đồng quản trị hoặc các cổ đông sáng lập đối với phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán; Có tổ chức bảo lãnh phát hành; Có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán.
Còn đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực công nghệ cao, đây là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao được khuyến khích đầu tư theo quy định của pháp luật. Do vậy những điều kiện mà doanh nghiệp này cần đáp ứng là: những điều kiện quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 4 Điều 4 Nghị định 14/2007/NĐ-CP.
Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 12, LCK, DN phải đáp ứng đủ các điều kiện sau mới được chào bán trái phiếu của mình ra công chúng:
Thứ nhất, DN có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;
Thứ ba, có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua;
Thứ tư, có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
Như vậy, khác với trường hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng, ngoài việc phải thỏa mãn các điều kiện về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh và về kế hoạch huy động cũng như sử dụng vốn huy động, doanh nghiệp muốn chào bán trái phiếu ra công chúng còn phải thỏa mãn thêm một vài điều kiện khác. Đó là doanh nghiệp không được có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với tư cách tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Hơn nữa, trong trường hợp công ti cổ phần chào bán trái phiếu ra công chúng thì phương án phát hành trái phiếu và phương án sử dụng vốn và trả nợ vốn huy động được từ đợt chào bán chỉ cần được sự chấp thuận của hội đồng quản trị thay vì được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông trong phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Sự khác nhau trong điều kiện mà các doanh nghiệp phải thỏa mãn để được chào bán cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng xuất phát từ sự khác biệt giữa bản chất của hai loại chứng khoán: trái phiếu và cổ phiếu. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ti cho chủ sở hữu cổ phiếu là các cổ đông trong khi đó trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu và họ trở thành chủ nợ của công ty. Chính vì vậy, việc chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng có thể sẽ ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu của công ti và cần được các cổ đông chấp thuận, nói cách khác việc làm này phải được đại hội cổ đông thông qua. Còn việc chào bán trái phiếu ra công chúng không làm ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu mà chỉ làm ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ti, vì vậy Hội đồng quản trị với tư cách là cơ quan quản lí công ti cổ phần, thông qua phương án phát hành và sử dụng vốn huy động cũng như phương án trả nợ gốc và lãi khi trái phiếu đến hạn là hoàn toàn phù hợp với chức năng của hội đồng quản trị công ti theo Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu trái phiếu được chào bán là trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có kèm theo chứng quyền thì phương án phát hành, kế hoạch phát hành và phương án sử dụng vốn lại cần được đại hội cổ đông thông qua. Quy định này cũng được lí giải bởi bản chất của hai loại chứng khoán này. Mặc dù là trái phiếu nhưng hai loại trái phiếu này lại có khả năng biến các chủ nợ của công ti phát hành (người sở hữu trái phiếu) thành chủ sở hữu công ti đó (cổ đông) ở thời điểm trái phiếu chuyển đổi chuyển thành cổ phiếu hoặc thời điểm chủ sở hữu trái phiếu có kèm theo chứng quyền thực hiện quyền mua cổ phiếu phổ thông của mình. Như vậy, đây là những trái phiếu đặc biệt, khác với trái phiếu thông thường ở chỗ chúng có khả năng làm tăng số lượng cổ đông có quyền biểu quyết của công ti phát hành ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Điều đó cũng có nghĩa sẽ làm thay đổi vị thế của các cổ đông hiện hữu. Việc trao quyền cho đại hội cổ đông thông qua phương án phát hành và sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán hai loại trái phiếu này, vì vậy, hoàn toàn hợp lí và thể hiện tính thống nhất của LCK với Luật doanh nghiệp.
Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư
Khác với mục tiêu của chủ thể chào bán cố phiếu và trái phiếu ra công chúng, chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư không nhằm huy động vốn để phục vụ mục đích kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà nhằm tái đầu tư bằng vốn huy động được và lĩnh vực đầu tư chủ yếu của quỹ đầu tư chính là chứng khoán. Vì vậy, điều kiện mà các chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng phải thỏa mãn được các nhà làm luật thiết kế cũng có nét đặc thù, gắn với tổng giá trị phát hành và phương án đầu tư vốn huy động được.
Cụ thể là chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng cần thoả mãn hai điều kiện theo quy định tại Khoản 3, Điều 12 LCK năm 2006. Hai điều kiện đó là:
Một là chủ thế này phải đăng kí chào bán lượng chứng chỉ quỹ với tổng giá trị tối thiểu là 50 tỉ đồng Việt Nam;
Hai là chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng phải có phương án phát hành phù hợp với quy định của pháp luật.
Trước đây, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP mặc dù thừa nhận việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng nhưng hầu như không quy định về điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng. Vì vậy, có thể thấy đây là bước phát triển đáng ghi nhận của LCK nhằm đảm bảo chất lượng của những chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán lưu hành rộng rãi trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng
Trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng gồm ba bước cơ bản là : đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng, công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng và cuối cùng là phân phối chứng khoán ra công chúng.
Đăng kí chào báo chứng khoán ra công chúng
Đây là bước khởi đầu mà bất cứ chủ thể nào muốn chào bán chứng khoán ra ngoài công chúng đều phải trải qua và là dấu hiệu đặc trưng cho phép phân biệt giữa chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Tuy nhiên khoản 2 điều 3 LCK cũng quy định những trường hợp mà chủ thể phát hành chứng khoán ra công chúng được miễn đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng gồm: Chính phủ; tổ chức tài chính quốc tế được chính phủ Việt Nam chấp nhận; Doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần; chủ thể chào bán chứng khoán theo bản án, quyết định của Tòa án; chủ thể chào bán chứng khoán là người quản lý người được nhận tài sản trong các trường hợp phá sản hoặc mất khả năng thanh toán.
Theo LCK hiện nay để thực hiện việc đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng tổ chức phát hành sẽ lập hồ sơ đăng kí chứng khoán ra công chúng gửi UBCKNN, Điều 14 LCK quy định tùy thuộc vào từng loại chứng khoán sẽ phát hành mà chủ thể phát hành phải hoàn tất những bộ hồ sơ khác nhau.
Với cổ phiếu: Chủ thể phát hành cần chuẩn bị bộ hồ sơ đăng ký chào bán gồm: giấy đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng, bản cáo bạch, điều lệ của tổ chức phát hành và phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng và cam kết bảo lãnh của chủ thể phát hành dự định sử dụng tổ chức bảo lãnh phát hành để phân phối chứng khoán ra công chúng.
Theo quy định trước đây ở Nghị định 144/2003/NĐ-CP quy định hai loại hồ sơ khác nhau cho hoạt động tương ứng là phát hành cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng và phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn nhưng hiện nay LCK đã đơn giản hóa hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu ra công chúng bằng cách quy định một loại hồ sơ áp dụng cho cả việc chào bán lần đầu tiên và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng. Nội dung của hồ sơ theo LCK cũng được quy định theo hướng nhẹ hơn trước vì đã bỏ bớt một số văn bản mà doanh nghiệp phải đưa vào hồ sơ đăng kí phát hành như: bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, danh sách và sơ yếu lí lịch thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát và báo cáo tài chính của hai năm liên tục trước năm đăng kí phát hành đã được kiểm toán.
Trong hồ sơ chào bán ra công chúng thì tài liệu quan trọng nhất là bản cáo bạch trong đó cung cấp mọi thông tin về tổ chức phát hành. Nội dung của bản cáo bạch được quy định tại điều 15 LCK, bản cáo bạch giống như lí lịch của tổ chức phát hành chứng khoán, phản ánh tất cả tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh, tổ chức bộ máy và kế hoạch sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành. Bản cáo bạch là tài liệu chủ yếu để nhà đầu tư tham khảo nghiên cứu trước khi đưa ra quyết đinh đầu tư vào loại chứng khoán của tổ chức đó. Việc đưa trực tiếp bản cáo bạch vào trong quy định của LCK nhằm xây dựng một thị trường chứng khoán lành mạnh, công khai, đáp ứng đầy đủ các thông tin về từng tổ chức chào bán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Đồng thời LCK cũng quy định cụ thể về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hồ sơ chào bán, đảm bảo cho nhà đầu tư yên tâm về lợi ích hợp pháp của họ.
Với trái phiếu: hồ sơ đăng kí chào bán trái phiếu ra công chúng cũng gần tương tự như hồ sơ chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng khác ở hai điểm
Thứ nhất thay vì cần có quyết định của hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành thì tổ chức phát hành trái phiếu cần có quyết định của hội đồng quản trị với công ty cổ phần hoặc hội đồng thành viên với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc chủ sở hữu công ty với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Thứ hai phải có thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hơp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
Ngoài ra trường hợp tổ chức phát hành có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu hoặc trái phiếu trong thời hạn của trái phiếu chuyển đổi thì hồ sơ chào bán phải nêu rõ rủi ro đối với quyền lợi của người mua trái phiếu kèm theo phương án đền bù cho nhà đầu tư để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư theo điều 4 Nghị định 84/2010/NĐ-CP
Với chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán: do hoạt động đặc thù của quỹ đầu tư chứng khoán hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng gồm : Giấy đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng, phương án chào bán chứng chỉ quỹ kèm theo phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào bán, bản cáo bạch (mẫu do Bộ tài chính quy định), dự thảo Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán (do Bộ tài chính quy định), hợp đồng giám sát giữa ngân hàng giám sát và công ty quản lý quỹ, cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có).
Hồ sơ đăng kí chào bán được gửi tới UNCKNN. Tổ chức phát hành phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực và đầy đủ của hồ sơ theo Điều 17 LCK. Trong thời gian hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng đang được UNCKNN xem xét thì tổ chức phát hành có nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu phát hiện thông tin không chính xác hoặc bỏ sót nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ hoặc thấy cần thiết phải giải trình về vấn đề có thể gây hiểu nhầm trước UBCKNN. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ đăng kí chào bán hợp lệ UBCKNN xem xét và cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng, trường hợp từ chối UBCKNN phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2.2 Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng
Sau khi được cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành chưa được phép chào bán ngay chứng khoán ra công chúng mà còn phải hoàn tất thủ tục công bố thông tin về đợt chào bán đó. Khoản 3 điều 20 LCK quy định trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực, tổ chức phát hành phải công bố bản thông báo phát hành trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp, chỉ sau khi thông báo về cuộc chào bán theo đúng quy định của pháp luật việc chào bán chứng khoán ra công chúng mới được tiến hành. Tổ chức phát hành còn phải đảm bảo rằng người mua chứng khoán đã tiếp cận bản cáo bạch có trong hồ sơ đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng bằng cách sẵn sàng cung cấp bản cáo bạch cho công chúng đầu tư tại các địa điểm ghi trong bản thông báo phát hành. Ngoài ra điều 19 LCK còn quy định: ”Sau khi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng mà phát sinh thông tin quan trọng liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng thì trong thời hạn bảy ngày, tổ chức phát hành phải công bố thông tin phát sinh theo phương thức quy định tại khoản 3 Điều 20 của Luật này và thực hiện việc sửa đổi, bổ sung hồ sơ.” Như vậy nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức phát hành trước khi chào bán ra công chúng sẽ đảm bảo nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết về tổ chức phát hành trước khi chào bán ra công chúng sẽ đảm bảo nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết về tổ chức phát hành và loại chứng khoán sắp được chào bán, từ đó có thể đánh giá được mức độ rủi ro của chứng khoán đó và có quyết định đầu tư đúng đắn.
2.3. Phân phối chứng khoán
Sau khi đã hoàn tất các công việc cần thiết để bảo đảm những thông tin cần thiết về công ty phát hành và về đợt chào bán tới được công chúng đầu tư, chứng khoán đã đăng kí chào bán mới được phép phân phối ra công chúng. Việc phân phối chứng khoán được quy định cụ thể tại điều 21 LCK, cụ thể tổ chức phát hành phải hoàn thành việc phân phối chứng khoán trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực, trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối chứng khoán ra công chúng trong thời hạn này, UBCKNN xem xét gia hạn việc phân phối chứng khoán nhưng tối đa không quá 30 ngày. Trường hợp đăng ký chào bán chứng khoán cho nhiều đợt thì khoảng cách giữa đợt chào bán sau với đợt chào bán trước không quá 12 tháng.
Việc chào bán có thể được thực hiện trực tiếp bởi tổ chức phát hành nhưng cũng có thể được thực hiện thông qua các trung gian như bảo lãnh phát hành hay đại lí phát hành. Bất kể chủ thể phân phối chứng khoán là ai trong số ba chủ thể trên chứng khoán chào bán phải được phân phối một cách công bằng công khai và đảm bảo thời hạn đăng kí mua chứng khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là 20 ngày. Tính công bằng trong việc phân phối chứng khoán thể hiện ở chỗ nếu số lượng chứng khoán đăng ký mua vượt quá số lượng chứng khoán được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải phân phối hết số chứng khoán được phép phát hành cho nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ đăng ký mua của từng nhà đầu tư.
Đợt chào bán kết thúc không có nghĩa các chủ thể tham gia vào quá trình chào bán và phân phối chứng khoán đã hoàn tất mọi trách nhiệm liên quan đến đợt chào bán mà các chủ thể này vẫn còn phải thực hiện một số nghĩa vụ với cơ quan quản lí nhà nước về chứng khoán và với nhà đầu tư. Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, kèm theo bản xác nhận của ngân hàng nơi mở tài khoản phong toả về số tiền thu trong đợt chào bán. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải chuyển giao chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho người mua trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đợt chào bán kết thúc. Định kỳ 6 tháng, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán cho đến khi hoàn thành việc giải ngân, tổ chức phát hành phải công bố thông tin về tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán
Việc chào bán chứng khoán ra công chúng có thể bị đình chỉ theo điều 22 LCK, UBCKNN có thể đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng tối đa là 60 ngày trong trường hợp phát hiện hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có những thông tin sai lệch, bỏ sót nội dung quan trọng có thể ảnh hưởng tới quyết định đầu tư và gây thiệt hại cho nhà đầu tư hoặc việc phân phối chứng khoán không thực hiện đúng quy định tại Điều 21 của LCK.
Việc phân phối chứng khoán ra công chúng cũng có thể bị hủy bỏ theo điều 23 LCK nếu quá thời hạn đình chỉ quy định tại khoản 1 Điều 22 của LCK mà những thiếu sót dẫn đến việc đình chỉ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng không được khắc phục. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị huỷ bỏ, tổ chức phát hành phải công bố việc huỷ bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng và phải thu hồi các chứng khoán đã phát hành, đồng thời hoàn trả tiền cho nhà đầu tư trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đợt chào bán bị huỷ bỏ. Quá thời hạn này, tổ chức phát hành phải bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư theo các điều khoản đã cam kết với các nhà đầu tư.
Ngoài ra theo Nghị định số 84/2010/NĐ-CP ban hành ngày 02/08-2010 có hiệu lực từ ngày 20/09/2010 sửa đổi bổ sung một số điều của NĐ số 14/2007/NĐ-CP thì Hồ sơ, trình tự, thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng để thành lập tổ chức tín dụng là công ty cổ phần và hồ sơ, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng để hoán đổi cổ phiếu và thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Với Chủ sở hữu Nhà nước (bao gồm cả các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước) thực hiện bán phần vốn nhà nước do Tập đoàn, Tổng Công ty nắm giữ ra công chúng nhằm thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp và Cổ đông lớn bán phần vốn sở hữu trong các công ty đại chúng ra công chúng việc đăng kí chào bán chứng khoán ra công chúng không phải do tổ chức phát hành thực hiện, Bộ tài chính quy định trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng với hai trường hợp này.
III. Thực trạng và hướng hoàn thiện
1. Thực trạng
Trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán diễn ra đầy sôi động. Thực tế hiện nay đã phản ánh một hiện tượng kinh tế tốt lành. Tuy nhiên vào năm 2009 vừa rồi lại chứng kiến sự sụt giảm giá cổ phiếu trên thị trường niêm yết, sự thất bại của nhiều đợt phát hành ra công chúng. Sự phát triển ko ổn định của thị trường có n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng.doc