Một cách chung nhất, định kiến được hiểu là những thái độ tiêu cực nảy sinh trên cơ sở của những cảm nhận không có cơ sở chắc chắn, tapạ hopự các quan niệm, ý kiến, niềm tin hoặc biểu tượng có tính chất rập khuôn và đơn giản hoá quá mức về những đặc điểm bề ngoài, thái độ và hành vi ứng xử xã hội, những ấn tượng xấu về một nhóm người nào đó tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ.
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4861 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Định kiến giới thể hiện qua các phương tiện truyền thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Định kiến giới thể hiện qua các phương tiện truyền thông
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, trên các kênh thông tin đại chúng, người ta thường kêu gọi sự bình đẳng giữa nam và nữ. Những băng-rôn, khẩu hiệu tuyên truyền, những chương trình ngợi ca hình ảnh của người phụ nữ… Phụ nữ ngày nay càng ngày càng thể hiện và được bản lĩnh của mình hơn trên nhiều các lĩnh vực khoa học, kinh tế, chính trị xã hội…những việc mà trước đây chỉ mặc định dành cho đàn ông. Xã hội phát triển, đời sống con người đổi khác, phụ nữ trở nên có vị thế hơn. Phải chăng đó là sự chuyến biến lớn trong nhận thức, trong tâm khảm của người dân Việt?
Chúng ta đều nhìn thấy bề nổi những gì mà truyền thông đưa lại, nhưng bản chất của việc đó thì thế nào. Phần trình bày dưới đây sẽ phân tích vào nội dung của các chương trình quảng cáo? Liệu rằng truyền thông có thực sự xoá bỏ được hoàn toàn định kiến đối với người phụ nữ trong xã hội hiện đại?
2. Nội dung
2.1. Định nghĩa về giới và bình đẳng giới
Giới là một khái niệm mới xuất hiện ở các nước nói tiếng Anh vào cuối những năm 60 và ở nước ta vào những năm 80 của thế kỉ XX. Trong cách hiểu chung, nhiều người thường lẫn lộn giữa giới và giới tính. Đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng tồn tại mối liên hệ chặt chẽ. Giới tính- thuật ngữ chỉ sự khác biệt giới thuộc về sinh học, giới- thuật ngữ bắt nguồn từ ngành khoa học khác (tâm lý xã hội, xã hội học, dân tộc học, văn hoá học….) chính vì vậy, nó được hiểu với ít nhiều khác biệt tuỳ vào góc độ của mỗi ngành khoa học. Có thể điểm ra một số định nghĩa tiêu biểu về giới:
Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách khác, nói đến giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ giác độ xã hội.
Giới là một thuật ngữ chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những kì vọng liên quan đến nam và nữ
Giới là sự tập hợp các hành vi học được từ xã hội và những kì vọng về các đặc điểm và năng lực được cân nhắc nhằm xác định thế nào là một nam giới hay một phụ nữ trong một xã hội hay một nền văn hoá nhất định. Giới cũng phản ánh các mối quan hệ giữa nam và nữ, ai cần làm gì và ai là người kiểm soát việc ra quyết định, tiếp cận các nguồn lực và hưởng lợi.
Giới là một phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Nói đến giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới và phụ nữ, liên quan tới hàng lạot vấn đề thuộc về thể chế và xã hội chứ không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay phụ nữ nào.
Tổng kết các khái niệm trên, thuật ngữ giới có thể dùng để chỉ vị thế xã hội của nam và nữ trong thực tế (tương quan về vị trí, vai trò xã hội của nam và nữ), có thể dùng để chỉ các hành vi ứng xử xã hội của nam và nữ, cũng có thể dùng để chỉ các quan niệm, các kì vọng liên quan đến nam và nữ…Rõ ràng, cách hiểu về giới ít nhiều có sự khác biệt tuỳ vào chuyên môn của nhà nghiên cứu (những người đấu tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ, các nhà khoa học giới, các nhà xã hội học, hay tâm lý học…)
Vậy, giới là gì? Nói đến giới là nói đến vai trò, trách nhiệm, và quyền lợi mà xã hội quy định cho người nam và người nữ. Bao gồm việc phân chia lao động, các kiều phân chia nguồn lợi và tương quan về địa vị xã hội của nam giới và nữ giới trong một bối cảnh văn hoá xã hội cụ thể. Thuật ngữ giới đề cập đến những đặc tính và cơ hộivề mặt kinh tế, xã hội, văn hoá và tâm lý gắn với việc là phụ nữ hay nam giới. Trong phần lớn các xã hội, là một người đàn ông hay là một phụ nữ không chỉ có các đặc điểm sinh học khác nhau mà còn phải đối diện với những mong đợi khác nhau của xã hội về về mặt ngoại hình, cách cư xử, tính cách và những công việc được cho là thích hợp đối với giới tính của người đó.
Bình đẳng giới là một khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn. Lịch sử phát triển xã hội cũng cho thấy không thể có sự tiến bộ xã hội thực sự nếu vẫn còn một bộ phận nào đó trong xã hội bị đối xử bất công hoặc bị loại trừ. Bởi vậy, một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển toàn diện của một quốc gia là thực trạng bình đẳng giới ở quốc gia đó. Như vậy, bình đẳng giới là mục tiêu phát triển xã hội, mục tiêu của việc xoá bỏ định kiến và phân biệt đối xử theo giới. Có thể điểm ra đây một số khái niệm về bình đẳng giới thường được sử dụng:
Bình đẳng giới là phụ nữ và nam giới cùng có những điều kiện như nhau để phát huy hết tiềm lực tiềm tàng của mình, cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và hưởng thụ bình đẳng các kết quả phát triển của quốc gia trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Điều quan trọng nhất là bình đẳng giới đem lại kết quả ngang nhau cho cả nam giới và phụ nữ.
Bình đẳng giới là phụ nữ và nam giới được coi trọng như nhau, cùng được công nhận và có vị thế bình đẳng. Nam giới và phụ nữ cùng được bình đẳng về: các điều kiện để phát huy đẩy đủ tiềm năng, các cơ hội tham gia đóng góp và hưởng lợi trong quá trình phát triển quyền tự do và chất lượng cuộc sống.
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Nam giới và phụ nữ cũng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng nhay nhau. Phụ nữ và nam giới cùng: có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện mong muốn của mình: có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và hưởng thụ từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực xã hội.
Là sự bình đẳng về luật pháp, về cơ hội, bao gồm sự bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực, vốn và các nguồn lực sản xuất khác, bình đẳng trong thù lao cho công việcvà bình đảng trong tiếng nói.
Có thể nói, bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới; là tình hình lý tưởng trong đó phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như nhau, có các cơ hội bình đẳng để phát hiện đầy đủ tiềm năng của mình nhằm cống hiến cho sự phát triển chung và hưởng lợi bình đẳng từ các kết quả đó.
2.2 Định nghĩa về định kiến và định kiến giới
Định kiến
Theo từ điển của J.P Chaplin: Định kiến là thái độ tiêu cực được hình thành trên cơ sở của yếu tố cảm xúc. Là niềm tin hoặc cách nhìn thường là không thiện cảm, dẫn đến cho chủ thể một cách nghĩ hoặc một cách ứng xử tương ứng với người khác.
Trong cuốn “những khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội”, Fisher cho rằng: Định kiến là những thái độ bao hàm sự đánh giá một chiuề và sự đánh giá là tiêu cực đối với cá nhân khác hoặc nhóm khác tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ. Nói cách khác, định kiến là một loại phân biệt đối xử bao gồm 2 thành tố chính là nhận thức và ứng xử.
Các định nghĩa về định kiến được đề cập từ các ấn phẩm đều có những nhìn nhận giống nhau một cách căn bản. Hầu hết các tác giả đều thừa nhận định kiến là những nhận thức thiếu căn cứ, phiến diện và một chiều của chủ thể mang định kiến. Định kiến là một kiểu thái độ có trước, thường theo hướng đánh giá một chiều, bất hợp lý đối với người khác, hoặc nhóm xã hội khác.
Một cách chung nhất, định kiến được hiểu là những thái độ tiêu cực nảy sinh trên cơ sở của những cảm nhận không có cơ sở chắc chắn, tapạ hopự các quan niệm, ý kiến, niềm tin hoặc biểu tượng có tính chất rập khuôn và đơn giản hoá quá mức về những đặc điểm bề ngoài, thái độ và hành vi ứng xử xã hội, những ấn tượng xấu…về một nhóm người nào đó tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ.
Có hai kết luận quan trọng trong lý thuyết tâm lý học xã hội khi nghiên cứu về định kiến. Thứ nhất, con người có xu hướng thường nhớ lại dễ dàng hơn những gì được củng cố từ các khuôn mẫu, mà không chú ý tới những gì bác bỏ nó. Điều này liên hệ tới thực tiễn ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, nhắc đến phụ nữ là nhắc đến sự khéo léo trong nấu nướng, may vá, nhưng thực chất các đầu bếp, nhà thiết kế chủ yếu có thành công lớn lại là nam giới. Hay, vị trí lãnh đạo mà nam đang chiếm ưu thế được củng cố bởi niềm tin là nam giới có phẩm chất và năng lực lãnh đạo hơn so với nữ giới được chứng minh phụ nữ không hề thiếu thậm chí nổi trội hơn so với nam giới trong một số phẩm chất lãnh đạo hiện đại…Thứ hai, định kiến được hình thành bởi một sự tập luyện xúc cảm có từ rất sớm, trong khi những niềm tin biện minh cho chúng đến muộn hơn, điều đó khiến cho việc loại bỏ chúng trở nên đặc biệt khó khăn. Ai cũng muốn từ bỏ định kiến của mình nhưng thay đổi những niềm tin thuộc về nhận thức thì dễ hơn thay đổi những cảm xúc sâu thẳm, có nghĩa rằng, trở ngại trong việc xoá bỏ định kiến giới không chỉ nằm ở chỗ thay đổi nhận thức của cá nhân, mà điều khó khăn là thay đổi những xúc cảm gắn với các định kiến đã được tập luyện từ thời thơ ấu.
Định kiến xã hội tạo nên một sự phân biệt xã hôi. Đó là sự thay đổi hình ảnh của chính mình hoặc là làm méo mó, biến dạng về bản thân khiến chủ thể mang định kiến có sự đánh giá lạc hướng về mình, tạo nên một sự phân biệt ứng xử của người khác tuỳ theo những mong đợi của chúng ta và tạo ra sự biện minh xã hội.
Định kiến giới cũng vậy, nó có thể làm cho phụ nữ hay nam giới đánh giá không đúng về bản thân và người khác. Định kiến giới làm đơn giản hoá quá trình nhận thức của con người về giới kjác, ngăn cản sự hiểu biết chính xác của những người không cùng giới tính với mình. Định kiến giới là định kiến xã hội dựa trên cơ sở giới tính. Định kiến giới là một trong những hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến, chúng gây nên những hậu quả tiêu cực cho cả nam giới và nữ giới.
Định kiến giới được xây dựng dựa trên một sự khái quát hoá về người khác và dùng nó để đánh giá nam giới hoặc phụ nữ mà không tính đến những trường hợp cụ thể. Trong giao tiếp, định kiến giới thường xuất hiện một cách tự động, ngẫu nhiên mà nhiều khi ta không kiểm soát được. Chúng ta thường phản ứng với người đối thoại một cách không chủ ý theo cách chúng ta chỉ lọc ra những hành vi khẳng định các chủ kiến của ta về họ. Định kiến giới là một kiểu thái độ nên không phải lúc nào cũng được phản ánh công khai trong hành động. Nhiều trường hợp cá nhân mang định kiến nhận ra mình không thể biểu lộ nó một cách trực tiếp, có nhiều lý do ngăn cản họ thực hiện điều này một cách rộng rãi, không ít cá nhân mang định kiến chỉ dám bày tỏ thái độ của mình mà không thể hiện hành vi định kiến với đối tượng họ muốn chống đối-dù là có ý thức hay vô thức.
Trong quá trình thiết lập mối quan hệ tiếp xúc, định kiến giới có thể để lại một số hậu quả:
Định kiến giới làm đơn giản hoá quá trình nhận thức của con người về người khác giới, ngăn cản hiểu biết chính xác những người không cùng giới tính với mình, dễ phá hỏng các mối quan hệ của con người trong xã hội.
Định kiến giới thường dẫn đến những thái độ khó chịu, những tình cảm tiêu cực- âm tính đối với đối tượng và điều này không có lợi cho sự lành mạnh cảm xúc của chủ thể mang định kiến.
Định kiến giới làm hỏng mối quan hệ giữa nam và nữ. Nó củng cố lòng tin của người đàn ông vào tính chất thượng đẳng của mình, khiến họ có thái độ kẻ cả và bảo thủ. Còn đối với phụ nữ, họ gặp nhiều khó khăn trong việc khẳng định bản thân và từ bỏ những hình ảnh tiêu cực về chính mình.
Có thể thấy, về nội dung, định kiến giới được xem là một trong nhiều biểu hiện của bất bình đẳng giới, nó có chức năng xác lập và duy trì những bất bình đẳng giới trong thực tế.
Việt Nam là một quốc gia mà trong quá khứ bị chịu ảnh hưởng nhiều của các tư tưởng nho giáo, xã hội đề cao vai trò của người đàn ông như là người chủ trong gia đình và xã hội. Con trai được tôn sùng là người thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường. Ở Việt Nam, tư tưởng gia trưởng không chỉ xuất hiện trong xã hội phong kiến mà nó còn được dùng nôm na trong đời sống hàng ngày, đặc biệt là các vùng nông thôn để chỉ sự áp chế của người đàn ông đối với phụ nữ. Tư tưởng gia trưởng không tồn tại rời rạc trong phạm vi tâm lý từng cá nhân, nhóm xã hội mà tồn tại trong hệ thống bao gồm những thiết chế văn hoá, tôn giáo, chính trị, kinh tế, pháp lý…do nam giới cầm quyền. Tuy nhiên, trong thực tế, hệ thống gia trưởng không thể tồn tại nếu không có sự úng hộ ngầm từ phía những người phụ nữ.
2.3 Định nghĩa về truyền thông và các phương tiện truyền thông
Truyền thông là quá trình chia sẻ thông tin, là một kiểu tương tác xã hội trong đó có ít nhất hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các quy tắc và tín hiệu chung. Truyền thông gồm ba phần chính: nội dung, hình thức và mục tiêu. Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm, hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân hay tổ chức khác, thậm chí là chính người/tổ chức gửi thông tin đi.
Ngày nay, có nhiều phương tiện truyền thông như: phương tiện điện tử (truyền hình, radio), báo chí, thư chào hàng trực tiếp, điện thoại, internet…
2.3.1 Định kiến giới thể hiện qua nội dung quảng cáo
Các phương tiện truyền thông rất đa dạng và phong phú về nội dung và hình thức biểu hiện, tuy nhiên, tôi muốn đưa ý kiến về hình thức và nội dung của quảng cáo- một trong những hình thức thường xuyên xuất hiện trên truyền hình.
Quảng cáo thương mại là một trong những hình thức tuyên truyền, phổ biến công khai thông tin về sản phẩm, dịch vụ thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng nhằm tác động tới nhận thức, tình cảm và hành vi của người tiêu dùng với mục đích thúc đẩy, kích thích tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ để kiếm lời nhiều nhất.
Hình thức quảng cáo thì đa dạng, nhưng nội dung quảng cáo thì có gì? và nó được biểu hiện như thế nào? Nếu thường xuyên xem tivi, các chương trình quảng cáo, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, những chương trình quảng cáo liên quan đến các sản phẩm sinh hoạt như dầu gội, nước lau nhà, xà phòng, bột giặt….thì sẽ là hình ảnh của người phụ nữ xuất hiện trong tư thế đang lau nhà, đang giặt quần áo…Bản thân người phụ nữ bị gán vào công việc nội trợ và bị coi đó là điều hiển nhiên, nên sản phẩm này gắn liền với hình ảnh những người mẹ, người vợ như một điều tất yếu.
Một quảng cáo về sản phẩm nước lau nhà, người vợ sau khi lau nhà xong thì ông chồng dắt chiếc xe máy lấm lem vào rồi dắt ra tạo thành một vết bẩn khó lau, và sau khi sử dụng sản phẩm thì mọi vết bẩn đã được lau một cách dễ dàng lại còn cho mùi hương thơm mát, người vợ tỏ ra vui mừng, hạnh phúc. Quảng cáo này ban đầu xem thì cảm thấy điều đó khá bình thường, nhưng nếu xem nhiều lần và chú ý, thì chúng ta có thể nhận thấy cái gọi là định kiến giới được thể hiện rất rõ trong clip. Một nền nhà sạch như vậy mà người chồng thản nhiên dắt chiếc xe vào, đồng thời người vợ cũng không tỏ ra quá khó chịu trước một hành động trái khoáy như thế. Như vậy, thái độ phản hồi từ phía người vợ cho thấy một sự chấp nhận: “công việc nội trợ là công việc của tôi, của người phụ nữ, nên tôi rất vui vẻ để làm”. Có phải tư tưởng gia trưởng đã được thể hiện ở đây?
Hay như những quảng cáo về các sản phẩm có tính chất mạnh mẽ hơn như nước tăng lực, café, thậm chí là điện thoại, ô tô…lại gắn với hình ảnh của nam giới với vẻ ngoài lịch lãm, phù hợp với tính chất của sản phẩm.
Nam giới thường được gắn mác với những cụm như từ về tính cách thì phải mạnh mẽ, táo bạo, dũng cảm và đầy tham vọng, về năng lực thì phải giỏi kĩ thuật, giỏi tự nhiên… nhưng trong thực tế, phụ nữ hoàn toàn cũng có thể làm mọi điều nam giới có thế làm, thậm chí là tốt hơn, (tất nhiên, nói như vậy, tôi đang đặt vấn đề về sinh học sang một bên). Thực tế cho thấy là phụ nữ cũng có thể là một nhà lãnh đạo giỏi, họ có vẻ ngoài lịch thiệp, họ cũng mạnh mẽ và táo bạo (các nhà chính trị gia), và những lập trình viên ngày nay cũng có rất nhiều người là phụ nữ, nhưng công việc đòi hỏi phải có sức khoẻ, tinh thần và trí tuệ ở mức cao như nghề phi công cũng có sự tham gia của phụ nữ (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ & Nguyễn Ly Hương- hai nữ phi công quốc tịch Việt Nam đầu tiên- thuộc đoàn bay 919- tổng công ty hàng không Việt Nam Vietnam Airlines). Vậy tại sao họ hình ảnh người phụ nữ không được gắn với những công việc thể hiện sự mạnh mẽ? Phải chăng đây là do sự định khuôn, khuôn mẫu giới yêu cầu như vậy?
2.3.2 Một số giải pháp
Thay đổi tư duy, có cái nhìn sáng tạo, mới mẻ trong nội dung và hình thức quảng cáo. Nội dung cần thể hiện được sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới.
Thực tế đã chứng minh rằng điều này hoàn toàn có thể thực hiện được, và hiện nay đang được quan tâm chú ý đến rất nhiều. Ví dụ, quảng cáo về nước rửa chén sunlight, hình ảnh 2 đôi nam nữ thi xem ai rửa bát nhanh hơn và sạch hơn, hay quảng cáo về lau dọn nhà cửa, đi siêu thị mua sắm thực phẩm….đã có sự “chia đều” về tương quan tỉ lệ, và có sự tham gia của cả nam giới trong vấn đề công việc nội trợ. Một thay đổi nhỏ, nhưng cũng để nhắc nhở rằng, việc nội trợ không phải là một công việc đặc thù chỉ dành riêng cho phụ nữ, mà nam giới cũng cần bắt tay, chung sức, điều này vừa thể hiện sự chia sẻ, vừa gắn kết tình cảm gia đình, giúp phần giảm bớt đi những định kiến xã hội nặng nề, thâm căn cố đế.
3. Kết luận
Bất bình đẳng giới không chỉ là một vấn đề của một quốc gia, một dân tộc, mà nó còn là vấn đề của toàn thế giới. Những trình bày ở trên mới chỉ đề cập đến một khía cạnh rất nhỏ về biểu hiện của định kiến giới- một trong nhiều biểu hiện của việc bất bình đẳng giới.
Để xoá bỏ định kiến, chúng ta không thể chỉ hô khẩu hiệu mà cần phải có những biện pháp hữu hiệu, thay đổi từ tư duy, nhận thức của chính mọi người trong xã hội, bao gồm cả nam giới và nữ giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Định kiến giới thể hiện qua các phương tiện truyền thông.doc