Công tác quản lý rủi ro là rất quan trọng đối với ngân hàng. Để đảm bảo cho công tác này được thực hiện tốt, ngân hàng cần có những bước thực hiện cụ thể:
Tínhtoánxácđịnhrủiro:
+ Thẩm định đánh giá rủi ro đối với từng khoản giải ngân: Tình hình tài chính của đối tượng xin vay vốn, phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay, phân tích khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro tình hình kinh tế.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4831 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đo lường lợi nhuận và rủi ro ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện năm trước
Nhấn mạnh thanh khoản
Lãi suất cận biên
4,00%
3,59%
3,92%
Hệ số sinh lợi (LN biên tế)
11,00%
11,68%
11,56%
Hệ số sử dụng tài sản
9,00%
6,95%
6,74%
Thu nhập trên tài sản ( ROA)
1,00%
0,81%
0,78%
Hệ số vốn CSH
14 lần
14,29 lần
13,88 lần
Thu nhập trên vốn CSH( ROE)
14,00%
11,60%
10,81%
Tỷ số đo lường rủi ro
Rủi ro thanh khoản
23,00%
16,67%
25,60%
Rủi ro lãi suất
1,00
0,87
0,96%
Rủi ro tín dụng
20,00%
20.00%
18,02%
Rủi ro vốn
10,00%
9,33%
10,67%
Trong khi các tỉ số lợi nhuận - rủi ro của ngân hàng được sử dung để đánh giá hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong những lãnh vực quan tâm lớn nhất thì phương pháp đo lường bổ sung hoạt động của ngân hàng có thể được sử dụng để làm rõ từng điểm mạnh - yếu của ngân hàng. Điều bao hàm ở đây tại thời điểm phân tích loại đo lường bổ sung nào của ngân hàng có thể sử dụng. Xu hướng, mục đích và số liệu của các ngân hàng cùng nhóm là cơ sở cho sự đánh giá như các tỉ số bổ sung.
- Bốn loại đầu tiên của sự đo lường bổ sung là rất hữu ích cụ thể cho việc hiểu một cách chi tiết các yếu tố thuộc về tỉ suất lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận trên tài sản.
+ Thứ nhất là lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi loại tài sản sinh lợi
+ Thứ hai xem xét nguồn thu nhập ngoài lãi suất để xác định hiệu quả hoạt động của ngân hàng từ các nguồn thu nhập ngòai lãi suất.
+ Hai loại khác là chi phí lãi suất của ngân hàng về các nguồn vốn huy động được và những chi phí khác để thực hiện hoạt động của ngân hàng như chi phí lương, chi phí quản lý..
+ Cơ cấu nguồn vốn và tài sản của ngân hàng thường cung cấp thông tin bổ sung cho các tỷ số lợi nhuận và rủi ro. Phân tích cơ cấu này trong sự liên hệ với lợi tức trên tài sản và chi phí của các nguồn vốn thường chứng minh có ích.- Xác định tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của một số khoản mục được chọn cung cấp hữu ích cho cả lợi nhuận và rủi ro.
4.1: Đo lường lợi nhuận và rủi ro NHTM
Đánh giá rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng nên được so sánh với những ngân hàng tương tự. Nói một cách tổng quát, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao. Ngân hàng cố gắng tối đa hóa giá trị đầu tư của vốn chủ sở hữu trong ngân hàng bằng cách cân bằng sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
Căn cứ vào những hoạt động NH có thể huy động nguồn quỹ trong 5 cách sau đây:
+ Tiền gởi không kỳ hạn
+ Tiền gởi có kỳ hạn: 3 tháng, 6 tháng . . .
+ Vay mượn từ các nguồn khác
+ Vốn CSH, vốn đầu tư của các CSH
+ Thu nhập chưa phân phối.
Tương tự, với nguồn quỹ có được ngoài mua sắm máy móc thiết bị, và tiền để tại quỹ, ngân hàng sẽ sử dụng nguồn quỹ còn lại theo 5 cách sau đây:
+ Đầu tư chứng khoán ngắn hạn < 3tháng.
+ Đầu tư chứng khoán dài hạn > 3 tháng.
+ Cho vay ngắn hạn chất lượng cao, và lãi suất thay đổi. Chất lượng cao có nghĩa là khỏan cho vay này được phân lọai không rủi ro.
+ Cho vay trung hạn chất lượng trung bình, và lãi suất thay đổi. Chất lượng trung bình có nghĩa là khoản cho vay này được phân lọai có thể bị rủi ro.
+ Cho vay dài hạn chất lượng cao, và lãi suất không đổi. Chất lượng cao có nghĩa là khoản cho vay này được phân loại không rủi ro
5.1 : Sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro:
Sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro là những rủi ro nào phải chấp nhận để có được lợi nhuận một cách thích đáng, mà là bao nhiêu rủi ro và lợi nhuận. Vấn đề cơ bản ở đây là quản trị ngân hàng nên cố gắng tối đa hóa giá trị vốn đầu tư của chủ đầu tư ngân hàng. Tối đa hóa giá trị này bao gồm cả hai, lợi nhuận và rủi ro và sự cân bằng giữa hai.
Các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận khác nhau không chỉ bao gồm ROA và ROE, mà còn định bởi thời gian của lợi nhuận và viễn cảnh lợi nhuận trong tương lai.
- Chất lượng hoặc rủi ro của lợi nhuận có liên quan đến số lượng
- Thời gian và lợi nhuận trong tương lai. Lợi nhuận có thể tăng nhanh bằng cách chấp nhận rủi ro hoạt động và tài chính nhiều hơn
+ Thời gian của lợi nhuận và viễn tưởng lại bị ảnh hưởng bởi rủi ro hoạt động và rủi rủi ro tài chính.
+ Rủi ro môi trường nó không làm gia tăng lợi nhuận một cách cụ thể nhưng cung cấp như 1 hạn chế trên chu kỳ và quyết định rủi ro.
- Sự quản trị của những ngân hàng lớn hơn hoặc những ngân hàng có nắm giữ nhiều công ty, cổ phần của chúng bán trên thị trường rất cao giá trị nên dùng giá thị trường đối với các chi phí thông thường của ngân hàng như là một hướng dẫn để cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro.
+ Ngân hàng nên chấp nhận thêm rủi ro nếu giá trị thị trường tăng. Bởi vì sự tăng trong lợi nhuận lớn hơn sự bù đắp phần giảm lợi nhuận nhiều lần kết quả từ sự chấp nhận rủi ro cao hơn.
Đánh giá rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng nên được so sánh với những ngân hàng tương tự. Nói một cách tổng quát, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao. Ngân hàng cố gắng tối đa hóa giá trị đầu tư của vốn chủ sở hữu trong ngân hàng bằng cách cân bằng sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
II: Thực Trạng Hoạt Động Của NHTM
2.1: Thực trạng lợi nhuận :
Huy động vốn:
Huy động vốn, được coi là hoạt động cơ bản, có tính chất sống còn đối với bất kì NHTM nào
Trong đó vốn tự có của các NHTM tham gia vào nguồn vốn cho vay chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ, mà nguồn vốn chủ yếu để cấp tín dụng vào nền kinh tế là nguồn vốn huy động, chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn vốn. Việc huy động được nhiều vốn vừa đem lại lợi nhuận, vừa mở rộng hoạt động của Ngân hàng. Vì hoạt động này tạo ra nguồn vốn chủ yếu của NHTM. Bằng các hình thức sau đây:
Nhận tiền gửi: Nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM, bao gồm:
Nhận tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức.
Nhận tiền gửi không kỳ hạn của các cá nhân.
Nhận tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi tiết kiệm) của các cá nhân tổ chức đoàn thể xã hội.
Nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Phát hành giấy tờ có giá: NHTM được quyền phát hành giấy tờ có giá (kỳ phiếu NH, trái phiếu NH….) để huy động vốn có kỳ hạn và mục đích sử dụng.
Các hình thức huy động vốn khác như vay vốn ở các NHTM khác, vay vốn tại NH nhà nước…
Huy động vốn thông qua việc bán các khoản cho vay.
Huy động tín dụng:
Huy động tín dụng là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế xã hội, vì thông qua hoạt động này mà hệ thống NHTM cung cấp một khối lượng vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế, nhờ khối lượng vốn này mà nền kinh tế sẽ phát triễn nhanh hơn, bền vững
Hoạt động tín dụng của NHTM gồm:
Cho vay (cho vay ngắn hạn, trung hạn, cho vay lãi hạn…)
Chiết khấu chứng từ có giá (cho vay gián tiếp)
Cho thuê tài chính
Bảo lãnh ngân hàng (tín dụng bằng chữ ký)
Các hình thức khác (thấu chi, trả góp…)
Hoạt động dịch vụ thanh toán:
Đây là hoạt động quan trọng và có tính đặc thù của NHTM, nhờ hoạt động này mà các giao dịch thanh toán của toàn bộ nền kinh tế được thực hiện thông suốt và thuận lợi, đồng thời thông qua hoạt động này mà góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong lưu hành nền kinh tế. Hoạt động dịch vụ thanh toán gồm:
Mở tài khoản giao dịch cho các khách hàng là pháp nhân, hoặc thế nhân trong và ngoài nước.
Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng.
Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế.
Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác.
Tham gia hệ thống thanh toán bù trừ trong nước, và hệ thống thanh toán quốc tế khi được phép.
Đầu tư tài chính:
Cho vay các khoản vay kinh doanh ngắn hạn
Cho vay mua hàng dự trữ.
Cho vay vốn lưu động.
Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Cho vay trên tài sản (cho vay đối với các khoản phải thu, bao thanh toán và cho vay trên cơ sở hàng dự trữ).
Cho vay các khoản vay kinh doanh dài hạn
Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
Cho vay luân chuyển.
Cho vay theo dự án.
Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty.
5.Sử dụng vốn:
Sử dụng vốn là toàn bộ vốn mà ngân hàng đem cho vay và đầu tư trong kế hoạch cụ thể như: Số dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn , dài hạn, cho vay khác và các nghiệp vụ đầu tư cho các nghiệp vụ kinh doanh chính của ngân hàng
Việc dự báo về sử dụng vốn của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch kinh doanh và hiệu quả của ngân hàng.Việc dự báo nhu cầu sử dụng vốn cho vay và đầu tư của các ngân hàng dựa vào các yếu tố:
Tăng trưởng GDP dự kiến
Lợi nhuận dự kiến của các doanh nghiệp
Chính sách cung ứng tiền NHTW
Tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế
Tỷ lệ lạm phát dự tính trong tương lai
Số dư nợ cho vay hiện tại các ngân hàng
Tình hình kinh tế trên địa bàn
Khả năng tiêu dung cá nhân
Các sản phẩm cung cấp vốn thay thế trong ngân hàng
2.2: Thực trạng rủi ro :
Rủi ro tín dung :
Một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại là hoạt động cho vay nên rủi ro tín dụng là một nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản lý rủi ro hiệu quả vì nếu ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao thì ngân hàng có khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh khoản thấp. Điều này có thể làm giảm hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí phá sản. Vì thế bộ phận quản lý tín dụng và quản trị rủi ro là hai bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của bất kỳ ngân hàng thương mại nào.
Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như thiếu tiền chi trả cho khách hàng, vì phần lớn nguồn vốn hoạt động của ngân hàng là nguồn vốn huy động, khi ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và lãi trong cho vay thì khả năng thanh toán của ngân hàng dần dần lâm vào tình trạng thiếu hụt.
Như vậy, rủi ro tín dụng sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thanh toán, làm cho ngân hàng lỗ và có nguy cơ bị phá sản.
Tỷ số giữa giá trị các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay và cho thuê
Tỷ số giữa các khoản xóa nợ ròng so với tổng cho vay và cho thuê.
Tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng số cho vay và cho thuê hay với tổng vốn chủ sở hửu
Tỷ số giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với tổng số cho vay và cho thuê hay với tổng vốn chủ sở hửu
Rủi ro thanh khoản :
Rủi ro thanh khoản xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau như: tập trung tín dụng trung dài hạn vào một số khách hàng lớn; tập trung nguồn vốn huy động không kỳ hạn vào một số khách hàng lớn và khi họ rút bất ngờ, có thể dẫn đến mất thanh khoản; phát triển nóng cả nguồn vốn lẫn tín dụng cũng liên quan đến rủi ro thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản chỉ sự so sánh giữa số tiền cần thiết để thanh toán cho người gởi tiền rút ra và sự gia tăng cho vay với nguồn thực sự hoặc tiềm năng trong thanh toán. Vốn cho vay là một nhu cầu về thanh khoản và nguồn vốn huy động được có thể là nguồn vốn quan trọng cho thanh khoản, mối quan hệ này cho thấy rủi ro thanh khoản của NH.
Sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro, sự tồn tại đó được chứng minh qua quan sát rằng một sự thay đổi từ đầu tư chứng khoán ngắn hạn sang chứng khoán dài hạn hoặc cho vay thì tăng lợi nhuận của NH nhưng cũng tăng rủi ro thanh khoản của nó. Vì vậy, tỷ số thanh khoản càng cao hơn của NH sẽ cho thấy rủi ro thấp và lợi nhuận thấp.
Trong hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động ngân hàng, ai cũng muốn tránh xa thứ rủi ro này, bởi chúng tiêu tốn lợi nhuận, làm kiệt quệ năng lực tài chính và thậm chí là đứt khả năng nghĩa vụ chi trả hay cam kết tài chính với đối tác.
Tỷ số giữa vốn trên tổng tài sản
Tỷ số giữa tiền mặt và số dư tiền gửi tại các ngân hàng khác so với tổng tài sản
Tỷ số giữa tiền mặt và các chứng khoán của chính phủ so với tổng tài sản
Tỷ lệ tài sản có khả năng thanh toán ngay và các tài sản nợ đến hạn thanh toán cho từng khoản thời gian cụ thể
Rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất của NH có liên quan đến sự thay đổi trong thu nhập tài sản và nợ phải trả và giá trị gây ra bởi sự thay đổi của lãi suất. Để đo lường rủi ro này ta so sánh giữa tài sản nhạy cảm với lãi suất với nợ phải trả nhạy cảm với lãi suất. Cụ thể trong các thời kỳ sự thay đổi lãi suất lớn. Tỷ số này phản ánh rủi ro mà NH sẵn sàng chấp nhận đó nó có thể tiên đoán cho cho xu hướng của thu nhập. Nếu một NH có tỷ số này> 1.0 thì thu nhập của NH sẽ thấp hơn nếu lãi suất giảm và cao hơn nếu lãi suất tăng.
Tỷ số giữa các tài sản nhạy cảm lãi suất với nguồn vốn nhạy cảm lãi suất : khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá nguồn vốn nhạy cảm lãi suất trong một kỳ hạng nhất định ,ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng bất lợi, thua lỗ nếu lãi suất giãm.ngược lại, khi quy mô nguồn vốn nhạy cảm vượt quá tài sản nhạy cảm với lãi suất.thua lỗ chắc chắn xảy ra nếu lãi suất tăng.
Tỷ số giữa tiển giử không được bảo hiểm trên tổng số tiền gửi :thưởng là những khoản tiền gửi của chính phủ và công ty ,rất nhạy cảm với những thay đổi của lãi suất ,chúng dễ bị rút ra khỏi ngân hàng khi có một đối thủ cạnh tranh đưa ra mức lãi suất cao hơn
Rủi ro phá sản:
Các ngân hàng phải quan tâm trực tiếp tới rủi ro đối với khả năng tồn tại lâu dài của mình , đây thường được gọi là rủi ro phá sản.Khi quy mô nợ khó đòi quá lớn , giá thị trường của các khoản mục đầu tư chứng khoán giảm ,vốn chủ sở hửu có thể giảm sút đáng kể.Các nhà đầu tư và người gửi tiền nhận biết tín hiệu này và rút tiền ,điều này có thể đẩy ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán ,phá sản .Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần ,việc phá sản ngân hàng sẻ làm cho các cổ đông trắng tay ,những người gửi tiền không được bảo hiểm phải chiu rủi ro mất tất cả hay phần lớn tiền gửi của họ.
Chênh lệch giữa lãi suất các loại giấy nợ do ngân hàng phát hàng so với chứng khoán chính phủ cùng kỳ hạn.Độ chênh lệch này tăng cho thấy rỉu ro thua lỗ sẽ tăng.
Tỷ số giữa giá và thu nhập cổ phiếu hàng năm của ngân hàng .Chỉ số này thường giãm nếu như nhà đầu tư cho rằng vốn chủ sở hửu của ngân hàng không cân xứng với mức rủi ro của nó.
Tỷ số giữa vốn chủ sở hửu so với tổng tài sản của ngân hàng.
Tỷ số giữa nguồn vốn vay so với tổng nguồn vốn huy động
Rủi ro đầu tư:
Xuất hiện khi lãi suất thị trường hạ ,khiến ngân hàng phải chấp nhận đầu tư vốn vào những tài sản có mức sinh lợi thấp , điều này làm giãm thu nhập kỳ vọng của ngân hàng .
Tỷ số giữa giá trị sổ sách so với giá thị trường ước tính của các tài sản ngận hàng .
Tỷ số giữa các khoản cho vay và chứng khoán với các lãi suất cố định so với các khoản vay và chứng khoán có lãi suất thả nổi.
Tỷ số giữa các nguồn vốn lãi suất cố định so với các nguồn vốn lãi suất thả nổi.
Tỷ số giữa các giá trị sổ sách và giá trị thị trường của nguồn vốn chủ sở hữu.
Rủi ro Vốn :
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng và rủi ro có liên quan mật thiết với nhau. Bản thân vốn chủ sở hữu chủ yếu là tiền do những người chủ ngân hàng đóng góp, những người đã chấp nhận rủi ro về khả năng ngân hàng sẽ chỉ kiếm được một khoản lãi không làm họ thỏa mãn hoặc thậm chí thua lỗ và do đó phần thu nhập trả cho cổ đông sẽ rất ít ỏi. có rất nhiều rủi ro mà người chủ ngân hàng phải đối mặt. chúng bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro đầu tư, rủi ro hối đoái, rủi ro tội phạm.
Rủi ro vốn của NH chỉ rằng bao nhiêu giá trị tài sản có thể giảm trước khi vị trí của những người ký thác và các chủ nợ bị đặt vào thế nguy hiểm, có nghĩa là vốn chủ sở hữu của ngân hàng không đủ bù đắp cho các khỏan ký thác vào ngân hàng khi gặp rủi ro trong họat động. Vì vậy, một NH có tỷ số vốn CSH / tài sản là 10% có thể giữ vững vị trí giảm giá trị tài sản lớn hơn một NH có tỷ số nầy là 5%.
Rủi ro vốn có liên quan với hệ số vốn CSH và thu nhập trên vốn CSH (ROE) . khi NH chọn rủi ro vốn cao hơn, hệ số vốn CSH và ROE cao hơn, khi NH chọn làm giảm rủi ro vốn, hệ số vốn CSH và ROE thấp hơn. Tóm lại, rủi ro vốn càng cao thì ROE càng cao.
2.3 : Đánh giá kết quả hoạt động NHTM
Trước tiên cần hệ thống lại các chỉ tiêu đo lường lợi nhuận và rủi ro trong ngân hàng và có điều chỉnh.Trình bài các chỉ tiêu phân tích lợi nhuận và rủi ro nhưng chỉ phù hợp với số liệu đưa ra, như cách tính hai tỷ số rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng không thể sử dụng phổ biến cho tất cả các ngân hàng. Vì vậy, hai tỷ số rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng cần được thống nhất lại tính toán dùng cho ngân hàng theo hệ thống các tỷ số sau đây:
Chỉ tiêu lãi suất biên tế tính theo tỷ lệ % đó là thu nhập lãi suất trừ chi phí lãi suất chia cho tài sản sinh lợi.
- Tỷ suất lợi nhuận bằng thu nhập ròng ( lợi nhuận sau thuế ) chia cho doanh thu.
- Lợi nhuận trên tài sản (ROA) bằng lợi nhuận biên nhân với hệ số sử dụng tài sản.
- Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường lợi nhuận của NH, nó phản ánh tình hình kết quả hoạt động của NH.
2.4: Chỉ tiêu do lường rui ro:
Công tác quản lý rủi ro là rất quan trọng đối với ngân hàng. Để đảm bảo cho công tác này được thực hiện tốt, ngân hàng cần có những bước thực hiện cụ thể: Tínhtoánxácđịnhrủiro:+ Thẩm định đánh giá rủi ro đối với từng khoản giải ngân: Tình hình tài chính của đối tượng xin vay vốn, phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay, phân tích khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro tình hình kinh tế...
+ Đánh giá năng lực lãnh đạo của các cán bộ doanh nghiệp.Lượng hóa rủi roSử dụng các công cụ phân tích, các chỉ báo phân tích để tính toán, đo lường những rủi ro được thể hiện qua các con số. Quản lý, giám sát+ Quản lý và giám sát việc doanh nghiệp sử dụng vốn. Nếu có dấu hiệu doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích: Ngưng việc giải ngân, đề nghị doanh nghiệp giải trình và yêu cầu thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng giải ngân. Đưa ra các phương pháp giải quyết rủi ro+ Không giải ngân đối với các hợp đồng không tuân thủ các điều kiện tài chính + Không chấp nhận các hợp đồng có độ rủi ro cao (tài sản thế chấp không đảm bảo, lĩnh vực đầu tư không rõ ràng…)
2.5 : Phân tán rủi ro:
+ NHTM không nên dồn vốn vào một hoặc một số ít khách hàng, cho dù khách hàng đó kinh doanh có hiệu quả. Bởi vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của NHTM.
+ Cho vay hợp vốn: Cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ là quá trình cho vay, bảo lãnh của một nhóm ngân hàng cho một dự án, do một NHTM làm đầu mối phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng.
Việc cho vay hợp vốn là để cung cấp các khoản tín dụng lớn mà cần nhiều ngân hàng kết hợp với nhau, cùng nhau xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án để tíến hành cho vay. Các ngân hàng tham gia hợp vốn vào một dự án phải ký với nhau một hợp đồng đồng tài trợ, thỏa thuận rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên. Do đó, khi có rủi ro xảy ra gánh nặng sẽ không dồn vào một ngân hàng nào, bởi các ngân hàng tham gia đồng tài trợ để chia sẻ rủi ro, hậu quả của nó được giảm nhẹ.
+ Bảo hiểm tín dụng: như bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay là biện pháp quan trọng nhằm san sẻ rủi ro. Ở các nước, bảo hiểm tín dụng thường được thực hiện dưới dạng sau:
- Khách hàng vay vốn mua bảo hiểm cho ngành, nghề mà họ kinh doanh.
- Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm và sẽ được bồi thường hại nếu gặp rủi ro mất vốn tín dụng.
- Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay.
+ Lập quỹ dự phòng rủi ro: được coi là một trong những biện pháp quan trọng để phòng chống rủi ro. Việc sử dụng các quỹ khi có rủi ro như sau:
- Quỹ dự phòng rủi ro đặc biệt: dùng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan đem lại.
- Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng: dùng để bù đắp các khoản tổn thất rủi ro tín dụng do khách hàng gây nên.Như vậy, trong nền kinh tế thị trường để giảm bớt rủi ro trong hoạt động ngân hàng thì tất yếu phải thành lập quỹ dự phòng rủi ro. Song tùy theo mỗi nước mà quỹ này được tổ chức theo những hình thức và tên gọi khác nhau
2.6 : Tối đa hóa lợi nhuân :
1. Chiến lược bậc thang
Chiến lược này có thể không tối đa hóa thu nhập đầu tư, nhưng có lợi thế là làm giảm những dao động về thu nhập và không đòi hỏi nhiều chuyên môn quản trị để thực hiện.
Hơn nữa, phương pháp bậc thang hướng tới tạo dựng một sự năng động trong đầu tư, vì một số chứng khoán phải luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chuyển đổi thành tiền để ngân hàng có thể sử dụng bất cứ cơ hộ đầu tư hứa hẹn nào đó mà có thể xuất hiện đột xuất.
2.Chiến lược chuyển đáo hạn về phía trước
Một chiến lược thông dụng khác, đặc biệt dành cho các ngân hàng thương mại chỉ mua những chứng khoán ngắn hạn và đặt tất cả số tiền đầu tư trong một khoảng thời gian ngắn. Phương pháp này nhấn mạnh việc sử dụng danh mục đầu tư về cơ bản như là nguồn thanh khoản hơn là nguồn tạo ra thu nhập.
3. Chiến lược chuyển đáo hạn về phía sau
Bằng cách quan tâm đầu tư vào những chứng khoán dài hạn, ngân hàng nhấn mạnh danh mục đầu tư như là nguồn tạo ra thu nhập, tuy nhiên, rất có thể ngân hàng sẽ phải phụ thuộc nặng nề vào việc vay mượn trên thị trường tiền tệ để hỗ trợ đáp ứng nhu câu thanh khoản của họ.
4. Chiến lược Barbell
Chiến lược này được tạo ra trên cơ sở kết hợp chiến lược chuyển đáo hạn về phía trước với chiến lược chuyển đáo hạn về phía sau. Theo đó, ngân hàng đặt phần lớn nguồn quỹ của họ vào danh mục gồm các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao ở một cực, tại cực còn lại là danh mục gồm những trái phiếu dài hạn, ở khoảng giữa của hai cực, không có hoặc có rất ít chứng khoán nắm giữ. Danh mục ngắn hạn cung cấp nguồn thanh khoản cho ngân hàng, trong khi đó danh mục dài hạn được thiết kế để đem lại nguồn thu nhập cho ngân hàng.
5. Phương pháp dự kiến lãi suất
Phương pháp này, một mặt có khả năng đem lại thu nhập vốn khá lớn, nhưng mặt khác, cũng làm tăng nỗi ám ảnh về tổn thất vốn đáng kể một khi những dự kiến ban đầu về xu hướng vận động của lãi suất trái với diễn biến thực tế
III : Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Lợi Nhuận
Lạm phát :
Rủi ro lạm phát là rủi ro về khả năng tăng giá phổ biến của các loại hàng hoá và dịch vụ và dẫn đến hậu quả làm giảm giá trị của các tài sản tài chính. Các ngân hàng thường xuyên cảnh giác với khả năng sức mua của thu nhập lãi và vốn gốc thu lại từ đầu tư chứng khoán và cho vay bị suy giảm do tác động của lạm phát, mặc dù ngày nay vấn đề này ít nghiêm trọng hơn so với những thập niên trước đây. Lạm phát cũng có thể làm hao mòn giá trị đầu tư của các cổ đông tại một ngân hàng. Bằng cách đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn và có lãi suất thả nổi, các ngân
hàng có thể giảm thiểu tác động bất lợi của lạm phát đối với tài sản đầu tư và đem lại cho ngân hàng một sự năng động lớn hơn trong việc đáp ứng với mọi sức ép lạm phát.
Tác động của ngân hàng nhà nước đối với ngân hàng thương mại:
Quản lý và điều tiết hoạt động của ngân hàng thương mại.
Thẩm định và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho ngân hàng thương mại
Điều tiết hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại bằng những biện pháp kinh tế và hành chánh.
Ví dụ: quy định tỉ lệ bắt buộc, hạn mức tín dụng, ban hành chính sách lãi suất cũng như tỉ lệ hoa hồng, lệ phí để áp dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Thanh tra và kiểm soát một cách thường xuyên và toàn diện mọi mặt hoạt động của ngân hàng thương mại.
Quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể của các ngân hàng quy phạm nghiêm trọng luật pháp hoặc mất khả năng thanh toán.
Các chính sách tiền tệ của chính phủ:
- Dự trữ bắt buộc:
Do ngân hàng trung ương quy định cao hay thấp trên tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gởi mà ngân hàng thương mại huy động được.
- Lãi suất:
Do ngân hàng trung ương kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường.
Công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường.
Sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và điều chỉnh lãi suất thị trường.
- Thị trường mở:
Điều này làm giảm khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông giảm, dự trữ của các ngân hàng thương mại giảm làm giảm khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt hơn. Nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối lượng tiền tệ.
- Tỷ giá hối đoái:
Ngân hàng nhà nước sẽ bắt buộc các ngân hàng thương mại phải tuân theo tỷ giá ấn định do ngân hàng nhà nước niêm yết
- Hạn mức tín dụng:
Ngân hàng nhà nước quy định cho các ngân hàng thương mại các hạn mức tín dụng, mà không cho các ngân hàng thương mại tự do cung cầu tín dụng luôn biến động không ngừng của thị trường
Các nhân tố khác:
Ngày nay, ngân hàng không chỉ phải đối mặt với các rủi ro tín dụng, thanh khoản, thị trường, thu nhập, phá sản, mà còn phải đối mặt với nhiều rủi ro quan trọng khác:
Rủi ro tỷ giá hối đoái: xảy ra khi có những thay đổi trong giá trị thị trường của đồng tiền các nước (đôla, bảng Anh, frang, yên Nhật….) làm ảnh hưởng tới giá trị thị trường của tài sản và nợ của ngân hàng.
Rủi ro chính trị: xảy ra khi có những thay đổi về luật pháp, quy định trong nước hay nước ngoài, ảnh hưởng xấu tới thu nhập, hoạt động và triển vọng tương lai của ngân hàng.
Rủi ro tội phạm: xảy ra khi những người chủ ngân hàng, hay nhân viên và các khách hàng có những hành vi phạm pháp như thực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đo lường lợi nhuận và rủi ro ngân hàng thương mại.doc