Mục lục
I. Những đóng góp về nội dung tư tưởng của tiểu thuyết
1. Con người cá nhân xuất hiện như một vấn đề của văn học và xã hội.
2. Tiểu thuyết TLVD thể hiện tinh thần dân tộc thầm kín.
II. Những cách tân trong nghệ thuật của tiểu thuyết tự lực văn đoàn.
1.Những cách tân về kết cấu và cốt truyện.
2. Cách tân về kết cấu Tiểu thuyết.
3. Cách tân trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
4. Cách tân trong ngôn ngữ và giọng điệu tiểu thuyết TLVĐ.
Danh mục tài liệu tham khảo :
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6605 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đóng góp của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn vào tiến trình hiện đại hóa văn hóa Việt Nam thế kỷ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đăng hậu đối. Tình yêu đi theo nhịp đập của trái tim chứ không theo sự xắp xếp của cha mẹ. Đó không phải là thứ tình yêu tài tử giai nhân hay những mối tình theo thông lệ xã hội. Mối tình của Dũng và Loan trong Đoạn Tuyệt, Mai và Lộc trong Nửa chừng xuân, Trương và Tuyết trong Đời mưa gió, Nhung và Nghĩa trong Lạnh Lùng..vv..Tất nhiên, để đến được với hạnh phúc họ gặp vô vàn những cản trở của gia đình trọng phú quý, cổ hủ và chính từ phía bản thân họ. Thế nhưng những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi nhân vật thì không thể nào giấu nổi.
Có thể nói một trong những cách tân quan trọng về nội dung tiểu thuyết TLVĐ là thay đổi cách nhìn về con người. Nhà văn đưa con người ra đấu tranh trực diện với xã hội cũ. Kết thúc tác phẩm có thể là những tương lai sáng lạn cho nhân vật hoặc còn để lại nhiều trăn trở trong lòng người đọc.
1.2. Con người cá nhân trong việc thể hiện thế giới nội tâm.
Phản ánh thế giới nội tâm là cách để tái hiện trọn ven con người theo đúng nghĩa. Truyện kể dân gian chỉ chú ý kể hành động của nhân vật. Thế giới nội tâm trong tác phẩm văn học Trung Đại có được chú ý nhưng chủ yếu qua tả cảnh, trao đổi thư từ và lối văn xướng họa.
Vào đầu thế kỉ xx là sự ra đời tiểu thuyết của Trọng Khiêm, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh..vv.. Thê giới nội tâm được miêu tả chân thật hơn. Song, nghệ thuật miêu tả thời kì này vẫn không thể vượt lên khỏi hoàn cảnh của tiểu thuyết chương hồi, không chiếu sáng được sự phân tích tâm lý vào nhân vật. Ngay cả Tố Tâm và Đạm Thuỷ cũng chỉ biết cách bày tỏ tình yêu qua thư từ, viện đến thơ đường luật.
Đến tiểu thuyết TLVĐ nội tâm nhân vật được phản ánh đầy đủ với nhiều cung bậc khác nhau. Chính Nhất Linh trong Viết và đọc tiểu thuyết đã khẳng định: “Những cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng sự thực cả bên trong lẫn bề ngoài. Đặc tả một cách sinh động những trạng thái phức tạp của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả chuyển động mỏng manh tinh tế của tâm hồn.” Thạch Lam cũng tuyên bố: “Nhà tiểu thuyết có tài là nhà văn đã diễn tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của con người.” Giáo sư Phan Cự Đệ trong Tự Lực Văn Đoàn, con người và văn chương đã nhấn mạnh: “So với tiểu thuyết trước 1930, tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn đã đi sâu hơn nhiều vào thế giới nội tâm phong phú của con người.” Nét độc đáo trong miêu tả nội tâm nhân vật của các nhà văn này là đã nêu lên hàng đầu thế giới cảm giác ấy. “Đó là nét khu biệt nổi bật của tiểu thuyết TLVĐ.” (3)
Mở đầu và kết thúc truyện luôn bằng những đoạn tả về cảm giác. Từ đó nó có ảnh hưởng chi phối tới giọng điệu toàn tác phẩm. Đồng thời chúng ta bắt gặp rât nhiều những cụm từ chỉ cảm giác như: “có cảm tưởng như”, “cảm thấy rằng”, “nhận thấy rằng”..vv..lặp lại như một điệp khúc. Chúng ta hãy thử làm một phép liệt kê sẽ thấy rõ điều này. Trong Đời mưa gió lặp lại các cụm từ này 25 lần, Lạnh Lùng 28 lần, Đẹp 22 lần, Con đường sáng 32 lần, Bướm trắng 34 lần..vv.. “Con người trong tiểu thuyết TLVĐ thường nhìn thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài qua cảm giác. Họ nhìn và cảm nhận thế giới trên cơ sở cảm giác.” (3). Sở dĩ vậy vì khi con người được giải phóng khỏi những tín niệm cũ thì có nghĩa là giả phóng các giác quan. Cảm giác, đó là khởi điểm của tư duy để cảm nhận thế giới màu sắc, âm thanh xung quanh con người. Đến tiểu thuyết TLVĐ thế giới cảm giác trở thành một nét đặc trưng của phương thức tự sự mới với nhiều sự đa dạng, chồng chéo.
1.2.1 Thế giới cảm giác là một thế giới nội tâm độc lập.
Trong tiểu thuyết chương hồi truyền thống, nội tâm nhân vật chỉ là phương tiện để minh chứng cho hành động. Đến đây, thế giới nhiều cung bậc ấy hoàn toàn độc lập và có giá trị tự thân. Duy trong Con đường sáng đã có những dòng cảm xúc như thế: “Trong bầu trời thần tiên đột ngột hiện ra Duy cảm thấy một cách mãnh liệt cái gì cũng trong sáng, thanh khiết đến cực độ, không khí không vương một mảnh bụi, ánh nắng trong hổ phách, từ ngọn lúa lay động lá cây phấp phới ở gần cho đến rặng tre ở chân trời, mọi vật đều nổi rõ…Duy ngây ngất đứng nhìn màu trời trong sáng trong lòng náo nức một sự ham muốn không bờ bến. Chàng cảm thấy đột nhiên mình rơi vào một cảnh mộng, chung quanh là những mảnh trời huyền ảo mà chàng mong ước đã tuởng như không bao giờ đến được…”
1.2.2 Thế giới cảm giác nhẹ nhàng, tinh tế.
Văn học truyền thống ưa thích những cảm giác mạnh như: đứt ruột, héo gan, khóc ngất, thét gào..vv..và biểu hiện ra bề ngoài dễ thấy. Ngược lại, các nhà văn TLVĐ luôn chú ý miêu tả những rung động tinh tế, mỏng manh nhất trong hồn người. Đó là những phần mờ tối, bí mật mà dường như chỉ nhân vật mới tự thấy được. Chương trong Đời mưa gió sống trong cảm giác cô đơn “ thấy lạnh thân thể, lạnh cả tâm hồn.” Loan trong Đôi bạn cảm thấy “nỗi buồn lạnh lẽo thấm vào tâm hồn.” Nhung trong Lạnh Lùng nghe người yêu nói chuyện và có ý tưởng về một niềm hạnh phúc mới. Nhung cảm thấy “ tâm hồn rạo rực và cảm động một cách mãnh liệt.” Khi gặp lại Mai trong lòng Lộc thấy “ nồng nàn, ngùn ngụt, tê tái”, còn Mai “nàng tự thấy hồi hộp, bẽn lẽn run sợ, nửa vì xúc cảm quá mạnh làm tiêu tán lòng quyết đoán khiến trái tim như ngừng đập…”
1.2.3 Thế giới cảm giác trong tiểu thuyết TLVĐ đầy biến động hư ảo với
Tuyết trong Đời mưa gió trộn lẫn bao cảm xúc trong lòng, khi thì thương tiếc, lo lắng, nhớ nhung khi thì hối hận. Có lúc cô sống với tâm trí nhẹ nhàng, khoan khoái lâng lâng. Đó là một phút quên lãng sự giả dối, những bó buộc khiến tâm hồn chân thật, phóng đãng, sục sôi. Nhưng có lúc Tuyết lại cảm thấy chán nản, trống rỗng.
Loan trong Đoạn Tuyệt là cô gái đầy ý chí,bản lĩnh thế mà khi được tự do nàng đã sống trong bao nhiêu trạng thái cảm xúc: “Nàng hồi hộp lo sợ nhưng trong cái sợ có lẫn cả cái vui sắp được sống một cuộc đời tự lập không liên lụy đến ai và không ai quấy rầy mình được..” Đó còn là cảm xúc trái ngược nhau trước sự lựa chọn giữa hiện thực và tương lai: “Ngồi trong xe nhìn ra cảnh hàng phố và những người qua lại dưới trời mưa Nhung rạo rực, hối hận, nàng thấy nàng là một người hư hỏng và đời nàng là một đời bỏ đi, tan tác, rã rời như những cây ướt mưa bị gió dập hai bên đường. Nàng không ngờ đâu có ngày lại sa xuống thấp như thế này được. Nàng rưng rưng muốn khóc nhưng cùng với giọt lệ ứa ra rừ khóe mắt, Nhung thấy một nỗi sung sướng man mác nảy nở trong lòng với những điều ước vọng muộn màng về cuộc đời mới mẻ, đáng sống và tốt hơn cái đời nhơ nhuốc của nàng hiện giờ…”
1.2.4. Bên cạnh cảm giác vật chất con người trong tiểu thuyết TLVĐ còn có cảm giác tâm hồn - nhân vật có khả năng tự lắng lọc tâm hồn mình.
Đó là Trương trong Bướm trắng hướng tới một cuộc sống chơi bời hết mình nhưng vẫn tự vấn lương tâm: “Chàng mở to hai mắt, khắp người rờn rờn sợ hãi vì lần đầu nhận thấy rõ căn bản của tâm hồn mình, một căn bản vô luân khốn nạn bấy lâu còn ẩn núp che đậy giờ mới lộ ra…” Nhung trong Lạnh Lùng thì luôn sống trong sự giằng xé giữa bản năng với trách nhiệm và nhiều lúc thấy hổ thẹn, căm ghét bản thân mình.
Tâm hồn con người đầy những cảm giác tinh tế khi mâu thuẫn, khi mạnh mẽ xen lẫn ham muốn dục vọng kín đáo. Đó là những mặt thánh thiện, đẹp đẽ và cả những xấu xa luôn làm nhân vật băn khoăn, dày vò bản thân. Tái hiện chân thực, sinh động những cảm xúc đó các nhà văn TLVĐ đã làm sống lại đời sống con người cả vật chất và tinh thần. Con người trong tác phẩm hiện lên nguyên vẹn, đầy đặn chứ không chỉ là những mảnh lắp ghép khô cứng.
1.3 Con người trong vẻ đẹp hình thể.
Văn học truyền thống rất ít khi miêu tả vẻ đẹp hình thể của con người. Nguyễn Du trong Truyện Kiều có phác họa vẻ đẹp của Vân và Kiều cũng chỉ với muc đích tiên định về số phận của hai nhân vật này. Đến Tố Tâm, lần đầu tiên người phụ nữ đẹp đi vào trong văn học nhưng có phần ảo não. Tố Tâm mang vẻ dịu dàng, kín đáo thể hiện qua những nét phác họa nhỏ. Những chi tiết nhỏ đó còn nhằm thể hiện tính cách nhân vật. Đến TLVĐ, vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ trở thành một giá trị tự thân, đáng trân trọng. Các cô gái luôn có vẻ đẹp khác nhau. Mai trong Nửa chừng xuân mang vẻ kín đáo, Tuyết trong Đời mưa gió thì sắc sảo, Hiền trong Trống mái thì mang vẻ khỏe khoắn, hiện đại. Có những người phụ nữ đã có gia đình như Loan trong Đoạn Tuyệt, Nhung trong Lạnh Lùng..vv.. nhưng vẫn tỏa ra nét trẻ trung, hấp dẫn. Điều quan trọng là họ tự ý thức được giá trị đó của mình. Loan đã hỏi chồng rất tình tứ: “ Em đố anh biết môi em đâu?” Khi thấy Thân thờ ơ nàng lại tự trả lời mình rằng: “ Môi em là cánh hoa này.” Quá trình làm đẹp của họ cũng được nhà văn chú ý miêu tả, như trong đoạn Nhung chuẩn bị quần áo đến gặp Nghĩa. Các chàng trai trong truyện cũng là những kẻ si tình và luôn tự hào khi được đi bên cạnh người đẹp.
Lần đầu tiên trong lịch sử văn học vấn đề con người lại được tiếp cận tỉ mỉ, sâu sắc như thế. Con người hiện lên trên mọi phương diện thánh thiện nhất và cũng như những góc khuất u tối trong tâm hồn. Đó là sự thể hiện cách nhìn mới về con người của các nhà tiểu thuyết TLVĐ.
2. Tiểu thuyết TLVĐ thể hiện tinh thần dân tộc thầm kín.
Tinh thần dân tộc là một trong những tư tưởng chi phối toàn bộ nền văn học nước ta. Đó là lòng yêu quê hương đất nước, kiên quyết đấu tranh khi có quân xâm lược, ra sức xây dựng quê nhà khi đất nước hoà bình. Ngay trong những hoạt động xã hội của mình các nhà tiểu thuyết TLVĐ luôn quan tâm và đấu tranh cho cải cách xã hội. Nhất Linh đã tuyên bố: “Tôi vẫn tha thiết mong đám bình dân thiệt thòi và thấp kém trong xã hội có những quyền sống mà họ thiếu thốn. Tôi đã bị thất vọng nhiều lần, thất vọng như bao nhiêu người khác đã quá mong mỏi ở những nơi không nên mong mỏi. Mặt trận Đông Dương mới thành lập đem lại cho tôi một tia ánh sáng hy vọng. Lấy trách nhiệm là một nhà văn cùng những đồng chí khác, tay cầm tay đứng trong hàng ngũ, tôi xin hết sức giúp một phần nhỏ mọn vào công việc đòi quyền sống của hết thảy anh em bị thiệt : mặt trận bình dân.”
Tuy nhiên do tình hình bị kiểm soát nghiêm ngặt nên tinh thần dân tộc trong tiểu thuyết của TLVĐ chỉ biểu hiện kín đáo qua hình tượng nhân vật như những người khách chinh phu,về xã hội, thời đại.
Dũng trong Đôi bạn là một hình ảnh như thế. Anh là con một nhà giàu nhưng khi đi học thường xuyên tham gia bãi khoá, bị đuổi học nên phải về quê. Anh chán cuộc sống dư dật và tự cảm thấy đó là nỗi nhục trước bạn bè. Anh từ chối cuộc hôn nhân định sẵn và dự định sẽ đi sang Tàu rồi sang Nga, dấn thân vào đời mưa gió quên đi cuộc sống tẻ nhạt và quên cả Loan nữa. Trong tác phẩm Dũng, Trúc, Tạo, Thái dường như đang tham gia vào một tổ chức bí mật nào đó với mục tiêu mơ hồ. Nhưng nó thể hiện khát vọng hành động, thoát khỏi cuộc sống đìu hiu, tẻ nhạt.
Hay nhân vật Dũng trong Đoạn tuyệt, sau bao ngày tung hoành xuôi ngược vào một chiều cuối đông lạnh lẽo, sương mờ, dừng chân nơi đồn điền của Độ, nghe tiếng gọi í ới của người nông dân xa xa, anh chợt nghĩ đến cái đời quê nghèo khổ. Anh “ muốn hoà vào đám dân kia, sống đời sống của họ”, mong ước cuộc sống của người nghèo khổ bớt bị hà hiếp. Anh tin vào sự đổi thay. Hình ảnh mơ hồ mà thiêng liêng của Dũng luôn xuất hiện trong tâm trí Loan và bản thân nàng cũng đã từng khao khát có được một cuộc sống như Dũng.
Hình ảnh người khách chinh phu là sự hài hoà giữa người thanh niên mang nỗi nhục mất nước và người nghệ sĩ say mê cái đẹp thuần tuý và thú giang hồ phiêu lãng. Trong tâm trạng lưỡng thế, họ quay lưng với thực tại xấu xa và luôn hướng tới một thế giới lý tưởng mà họ mơ ước. Nhân vật người khách chinh phu như Dũng trong hai tác phẩm trên luôn được bao phủ trong một màn sương thi vị bằng đường nét ước lệ, trừu tượng mơ hồ. Họ lao vào hoạt động nhưng không hướng tới một mục đích nhất định (có thể họ là đồ đệ của triết lý “hành động để hành động” của Gide bởi vì bản thân sự hành động đã mang một mục đích tự tại, một ý nghĩa thoát ly ). Hành động của các chàng trai đó không mang tính định hướng chỉ để thoả chí anh hùng. Họ dấn thân hành động vượt ra ngoài sự bao phủ của nỗi buồn nản dày đặc bao quanh mình để trở thành người anh hùng chiến bại. Họ cũng vừa là khách si tình, đôi lúc nghĩ đến người yêu hơn lý tưởng của mình, lấy yêu đương làm niềm an ủi.
Tiêu Sơn tráng sĩ dựa trên chất liệu lịch sử có thật được Khái Hưng sử dụng để đề cao hành động phiêu lưu không mục đích của những đảng viên Tiêu Sơn như hành vi cao thượng của những trang nghĩa hiệp. Đảng tan vỡ, Quang Ngọc nói với Nhị Nương: “ Hành động là phận sự của chúng ta, không hành động thì đời chúng ta không còn có ý nghĩa gì nữa, phải không hiền hữu?” Hoàng Phi thấy vận hạn nhà Lê đã hết, khuyên Phạm Thái - phó đảng Tiêu Sơn kiêm chức quân sư của đảng không nên hành động vô ích. Phạm Thái trả lời: “Tâu lệnh bà, đời kẻ sĩ chỉ là hành động, còn sự thành bại cùng sự sống chết không nên để…nghĩ quá…”
Trong truyện có sử dụng nhiều chi tiết lịch sử như: Lê Chiêu Thống nhờ quân Thanh sang giúp đàn áp cuộc khởi nghĩa cuối cùng bị chúng đối xử tàn tệ. Từ đó nhà văn muốn vạch trần âm mưu của bọn phong kiến phương Bắc và ảo tưởng cầu viện ngoại bang của bọn phong kiến thối nát. Sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh được Hoàng Cân ca ngợi: “Không có lòng yêu nước thương dân mà chỉ nghĩ đến quyền lợi một mình mình, của một đảng mình, thời có lên làm vua chúa nữa cũng chẳng ra gì huống chi con phạm thêm cái tội rước voi về giày mồ.” Tuy vậy nhà văn cũng muốn phê phán tầng lớp thanh niên quá ham mê tình ái, rượu nồng mà quên trách nhiệm với dân tộc qua hình ảnh Phạm Thái.
Bên cạnh những cách tân mới mẻ của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn về phương diện nội dung với sự thay đổi trong cách nhìn nhận con người như một giá trị đích thực các nhà văn trong TLVĐ còn góp phần hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết.
II. Những cách tân trong nghệ thuật của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn.
Tình Già của Phan Khôi tuy không phải là một bài thơ hay nhưng nó là một mốc son đánh dấu sự ra đời của phong trào thơ Mới. Tiểu thuyết Thầy Lazarô Phiền (1887) là thử nghiệm đầu tiên mang tính đột phá của lối viết hiện đại phương Tây. Truyện được kết cấu câu chuyện lồng trong câu chuyện, nghệ thuật miêu tả tâm lý được chú trọng chứ không phải chỉ kể sự kiện hay hành động. Truyện cũng kể không theo trật tự thời gian tuyến tính và không sử dụng lối văn biền ngẫu. Tố Tâm là một thành công đáng ghi nhận khi vận dụng lối viết mới vừa trở về dòng hồi tưởng vừa tái hiện trực tiếp câu chuyện qua những cảnh chuyển đổi và sự vận động. Từ đó tác phẩm mở ra “ hiện thực của tâm hồn con người”, góp phần thay đổi cảm hứng thẩm mỹ của cả một thế hệ người đọc cùng thời. Nhưng đây chỉ là một bước chuẩn bị cho sự xuất hiện của tiểu thuyết hiện đại.
Nhưng đến khoảng từ những năm 1932 trở đi với việc xuất hiện của tiểu thuyết TLVĐ và những tư tuởng tiêu biểu của văn đoàn đó như Hồn Bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân, tiểu thuyết mới có những mẫu mực hoàn chỉnh. Thanh Lãng đã nhận xét: “Hồn bướm mơ tiên (1932) khép hẳn một thế hệ nghệ thuật và mở ra một thế hệ khác.”
Sự cách tân của tiểu thuyết TLVĐ trong nghệ thuật thể hiện trên cách kết cấu truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lí và hiện đại hoá ngôn ngữ truyện..vv..
1. Những cách tân về kết cấu và cốt truyện.
1.1 Cách tân về cốt truyện.
Cốt truyện trong tác phẩm tự sự là sự miêu tả một cách nghệ thuật các sự kiện, hành động trong đời sống nhân vật trong một không gian, thời gian. Ngoài mối liên hệ bên ngoài có tính chất thời gian và nhân quả, giữa các sự kiện còn có mối liên hệ bên trong mang ý nghĩa tạo thành phạm vi kết cấu của cốt truyện. Sức hấp dẫn của truyện là ở cốt truyện có nhiều tình tiết éo le, li kỳ, những sự kiện dẫn dắt con người phiêu lưu qua nhiều cảnh ngộ, gặp nhiều gian nan hay những cơ may thuận lợi. Nó chi phối tính cách và sự phát triển của nhân vật. Tiểu thuyết đầu thế kỉ xx của Nguyễn Trọng Thuật hay Hồ Biểu Chánh có chú trọng tâm lý nhưng còn đơn giản. Đến tiểu thuyết TLVĐ, các nhà văn xem nhân vật là trung tâm tác phẩm không lấy sự kiện, tình huống ly kì làm quan trọng. Ở đó, thế giới nhân vật rất sinh động, hấp dẫn với sự phát triển phức tạp của nội tâm. Sự kiện chỉ đóng vai trò khơi chảy dòng tâm lý.
Trong Tiêu Sơn tráng sĩ, Khái Hưng đã dựa vào nhiều sự kiện lịch sử và các tác phẩm đi trước như: Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Tam quốc chí, Thuỷ hử..vv..Tú Mỡ đã nhận xét: “Khái Hưng đã khéo léo kết hợp nghệ thuật của hai luồng văn hoá Đông Tây để viết lên một thiên tiểu thuyết hoàn toàn việt Nam.” Tuy dựa vào cuộc đời thực của Phạm Thái nhưng nhà văn đã có những hư cấu, sáng tạo phóng túng. Nhân vật Phạm Thái trong tác phẩm vừa mang dáng vóc của một anh hùng, một nghệ sĩ, một khách chinh phu và một kẻ tình si. Không làm được người anh hùng trong cuộc đời nhân vật đành làm người anh hùng trong mộng. Đây là đại diện cho thanh niên tiểu tư sản, yêu nước nhưng muốn thoát ly, có lối sống cầu an, tẻ nhạt.
Truyện bố cục rõ ràng, gọn gàng hợp lý không có những đoạn thừa vô ích, rời rạc mà rất sinh động, hấp dẫn.
1.1.2 Cốt truyện mang luận đề xã hội.
Theo nhà văn Nhất Linh: “Viết tiểu thuyết luận đề là viết một tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương tuyên truyền một cái gì mà tác giả cho là đẹp, để đả đảo một cái gì mà tác giả cho là xấu xa.”
Trong các tiểu thuyết của thế kỉ 19, nhà văn tự coi mình là người thư kí trung thành của thời đại phải miêu tả chân thực tất cả những bộn bề của cuộc sống. Đến thế kỉ 20 tiểu thuyết luận đề phát triển. TLVĐ đã góp phần đưa tiểu thuyết luận đề thành một thể loại quan trọng. Đi sâu vào miêu tả thế giới nhân vật với những vấn đề riêng, những băn khoăn đau khổ riêng, Nhất Linh đã kí thác tâm sự của mình vào nhân vật với một cái tôi chân thành cảm động. Nhờ sự gắn bó máu thịt giữa hình tượng và luần đề, sự kết hợp khá nhuần nhị những phán đoán của trí tuệ với những rung cảm của tâm hồn nên tiểu thuyết của Nhất Linh nêu cao được ý nghĩa xã hội và sức khái quát mà vẫn không rơi vào tình trạng minh họa một cách khô khan công thức.
Cốt truyện luận đề có hai xu hướng. Hướng thứ nhất: Nhà văn xây dựng tính cách nhân vật với hoàn cảnh có mối quan hệ. Nhân vật mang lý tưởng xã hội chống cái cũ, khát vọng vươn lên cuộc sống mới.
Trong Nửa chừng xuân, Nhất Linh đã xây dựng hai hệ thống nhân vật đối lập. Đó là Huy, Mai, Lộc đại diện cho cái mới đối lập với nó là bà Án, đại diện cho gia đình phong kiến hà khắc. Câu nói của Huy với bà Án là một tuyên ngôn rõ ràng cho tư tưởng tác giả. Đặc biệt trong Đoạn tuyệt, thông qua nhân vật Loan nhà văn đã nêu lên bản tuyên ngôn đầy đủ nhất về cái cũ - mới, về quyền sống con người. Từng chi tiết trong truyện dường như đều phục vụ tư tưởng đó. Việc Loan cố tình đạp đổ cái hỏa lò trong ngày cưới hay chi tiết con trai Loan chết tuy vô lý nhưng nhằm biểu hiện chủ đề tác phẩm. Hơn hết là qua lời bào chữa của vị luật sư cho nỗi oan uổng của Loan: “Người có tội chính là bà mẹ chồng thị Loan và cái luân lí cổ hủ kia. Nhưng nếu vượt lên trên việc xảy ra không phải lỗi ở người nào cả mà lỗi ở sự xung đột hiện thời đang khốc liệt của hai cái cũ, mới.”
Hướng thứ hai: tác phẩm mang nội dung cải cách xã hội, mang tính chất cải lương. Trong Gia Đình, Khái Hưng ca ngợi những địa chủ tân học như Hạc và Bảo đã thi hành cải cách đào giếng, mở trường, lập sân vận động, quán trọ, khu du lịch nghỉ mát cho nông dân mong họ có cuộc sống tốt đẹp, vui vẻ hơn. Tuy vậy, đây chỉ là lòng tốt của cá nhân và mang tính ảo tưởng, khiên cưỡng với nhãn quan tư sản.
1.1.3 Cốt truyện tâm lý.
Đối tượng chính của những tiểu thuyết này là tâm lý, tiêu biểu là Đời mưa gió, Đôi bạn, Bướm trắng. Các tác phẩm này thu vào vòng tròn tâm lý hướng tâm. Hành động ngày càng bó hẹp vào thế giới phong bế của những cảm xúc và mối quan hệ cá nhân. Sự phát triển của cốt truyện có thể hình dung như một chuỗi dài những vòng tròn trôn ốc. Lùi lại trước một sự kiện nào đấy, người viết đưa ra một chuỗi các động tác tinh vi. Càng xoáy sâu vào nội tâm nhân vật, hành động dường như bị cắt đứt. Sự kiện trong kiểu cốt truyện này ít, mạch chảy chậm, hồi ức về rất tự nhiên.
Trong Đời mưa gió Khái Hưng và Nhất Linh đã miêu tả tâm lý nhân vật Tuyết không hợp với quy luật của cuộc sống nhưng hợp với nhân vật lang mạn nổi loạn. Nhân vật có một triết lý sống khác người, bất chấp cảnh ngộ. Đôi bạn không có cốt truyện. Tình yêu giữa Loan và Dũng mở đầu bóng gió, kết thúc xa xôi. Cuộc thoát ly của Dũng còn mờ nhạt trong mục đích và con đường đi. Cốt truyện đơn giản, ít sự kiện nhưng nhiều khoảng lặng, khoảng trống ngập ngừng để nhân vật cảm xúc, suy nghĩ hơn là hành động. Bướm trắng là câu chuyện của một thanh niên trí thức hiện đại nhưng không mang một băn khoăn xã hội nào vì tâm trí bị đè nặng bởi bệnh hoạn và cái chết. Đúng vào lúc được yêu thì Trương nghi đến cái chết đang đe dọa mình. Ái tình đem lại cho chàng những thú thần tiên ngây ngất nhưng cũng mang đến những nghi ngờ, cô đơn tủi nhục khi bị thờ ơ. Cái chết đem đến cho chàng bao ý nghĩ cao thượng: xót mình đi, hy sinh cho người khác nhưng cũng thật thấp hèn: hương thụ bất chấp luân lí và tự huỷ hoại bản thân.
Trong tiểu thuyết tâm lý các nhà văn TLVĐ đã có cách xắp xếp sự kiện hợp lí, khai thác tinh tế những lớp tâm lý éo le. Dòng cảm xúc ấy như những con suối nhỏ lúc dào dạt, khi róc rách chìm lẫn trong mớ sự kiện vụn vắt, lộn xộn. Từ đó mạch truyện phát triển hấp dẫn.
2. Cách tân về kết cấu tiểu thuyết.
Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm (chủ đề tư tưởng và tính cách, tính cách và hoàn cảnh ) và các yếu tố khác thuộc hình thức ( bố cục, ngôn ngữ, nhịp điệu ).
Trong truyện cổ, các sự kiện được tách ra khỏi chuỗi thời gian vô cùng vô tận của thế giới để đặt vào trong một thế giới riêng tồn tạo độc lập, khép kín. Từ đó nó tạo một khung thời gian có mở đầu và kết thúc, thời gian vận động một chiều, không có quá khứ xảy ra trước khi mở đầu và cũng không có tương lai sẽ xảy ra khi truyện kết thúc. Công thức chung của kết cấu truyện truyền thống là: gặp gỡ - li biệt - đoàn tụ. Cốt truyện phát triển theo chủ quan nhà văn. Tiểu thuyết truyền thống chủ yếu theo kết cấu chương hồi, thời gian tuyến tính. Mỗi chương, mỗi hồi là một khúc, một đoạn trong toàn bộ truyện có tính trọn vẹn tương đối, thời gian khép kín trong từng sự kiện.
Đến tiểu thuyết TLVĐ, kết cấu đã mang tính chất đa tuyến nhiều bình diện. Truyện đã có sự luân phiên các sự kiện, các cảnh khác nhau, sự đan chéo giữa những tuyến nhân vật và lịch sử.
2.1. Kết cấu tiểu thuyết bắt đầu có màu sắc đa tuyến.
Trong Đôi bạn có kết cấu tâm lý tình yêu e ấp, trong sáng. Đồng thời, tác phẩm cũng phơi bày cuộc sống giả dối của gia đình ông Tuần, đại diện tầng lớp quan lại. Bên cạnh đó, nhà văn con hé lộ cuộc đời sóng gió của một nhóm thanh niên dấn thân vào hoạt động bí mật. Cũng trong chủ đề đó, Đoạn tuyệt vừa phản ánh cuộc xung đột cũ - mới của nàng dâu tân học với bà mẹ chồng ác nghiệt. Đồng thời, đó còn là mối tình lý tưởng của đôi bạn trẻ và những hành tung bí mật của Dũng cho một tổ chức chính trị không rõ cương lĩnh, mục tiêu.
Có thể nói trong Tiêu Sơn tráng sĩ kết cấu chằng chéo phức tạp. Truyện vừa là hình ảnh người khách chinh phu và mối tình thơ mộng, lãng mạn giữa Phạm Thái và Quỳnh Như, Quang Ngọc và Nhị Nương với triết lý “hành động để hành động”. Đồng thời, tiểu thuyết còn phản ánh nỗi cô đơn trống vắng của con người đang bế tắc,lúng túng trước những ngả rẽ cuộc đời.
2.2 Kết cấu theo quy luật tâm lý .
Kiểu kết cấu này đảo lộn thi pháp văn học trước ,chi phối tất cả các khâu trong quá trình sáng tạo. Mở đầu các tiểu thuyết là những dòng cảm xúc của nhân vật không theo trật tự thông thường của câu chuyện. Mở đầu nhân vật xuất hiện trong một cảnh huống nào đó rồi mới giải thích lai lịch quá khứ nhân vật đan xen trong hiện thực. Kiểu kết cấu này phá vỡ lối kết hậu đoàn viên, nhân vật hạnh phúc viên mãn. tiểu thuyết TLVĐ kết cấu rất tự nhiên, có khi ở chỗ hành động chấm dứt, nhưng cũng có khi đột ngột dở dang. Truyện khởi đầu và kết thúc bằng tâm lý nhân vật. Lối kết thúc mở tạo ra nhiều ám ảnh cho người đọc. Hành động này chưa kết thúc đã dẫn đến hành động khác tạo bi kịch. Đôi bạn kết thúc “trong tiếng nhạc ngựa ở đâu vọng tới giòn và vui trong sự yên tĩnh của buổi chiều. Trước mắt hai người, phía bên kia cánh đồng, đèn nhà ai mới thắp yếu ớt trong sương như một nỗi nhớ xa xôi mờ dần.” Trái lại Đoạn tuyệt lại hé mở một tương lai tươi sáng.
Do kết cấu tâm lý nên mạch truyện không tuân theo trật tự thời gian mà theo tâm lý nhân vật. Hành động nhớ lại, hồi tưởng lại, nghĩ lại lặp lại với tần số cao có tác dụng mở rộng không gian câu chuyện, chiếu ánh sáng mới vào quá khứ xa xôi của nhân vật. Quá khứ, hiện tại, tương lai cùng đồng hiện trong tác phẩm tạo nên thời gian bi kịch cao và sâu hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Trương và Mùi trong Bướm trắng đã làm hai người sống lại cuộc đời trong sách ngày xưa, một cậu sinh viên và một cô hàng xén. Nhân vật nhớ tiếc quá khứ để rồi cùng khóc cho hiện tại và thấy tương lai mờ mị phía trước. “ Trương như thấy trên nét mặt mếu máo và gầy gò của Mùi tất cả cái đau khổ của đời chàng.” Ảnh hưởng của dòng chảy tâm lý nhân vật nên thời gian cũng mang màu sắc tâm lý được co giãn. Với Nhung trong Lạnh Lùng, tết là những n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VHDOCS 47.doc