MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1, Cơ sở lý luận của đề tài: 2
1.1,Tồn tại xã hội và ý thức xã hội: 2
1.2,Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội : 2
2,Vận dụng nguyên lý giải quyết vấn đề của thực tiễn: 3
2.1, Lịch sử hình thành tôn giáo : 3
2.1.1,.Thời kì đầu : hình thành và phát triển dưới tư tưởng của chủ nghĩa duy tâm 3
2.1.2,.Thời kì đã hình thành xã hội loài người có giai cấp : 4
2.2,Bản chất ,nguồn gốc,và chức năng của tôn giáo 5
2.2.1, Bản chất : 5
2.2.2, Nguồn gốc : 6
2.2.3, Chức năng xã hội của tôn giáo 7
2.3, Các loại tôn giáo : 8
2.4,Về sự phát triển tôn giáo ở Việt Nam : 9
2.5, Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo: 11
2.5.1,Mặt tích cực 11
2.5.2,Mặt tiêu cực 12
2.6,Ảnh hưởng của phật giáo tới thế hệ trẻ 12
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2152 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Dựa vào nhận thức về tồn tại xã hội và ý thức xã hội phân tích vấn đề tôn giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vượt trước tồn tại xã hội. do nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng
- Ý thức xã hội có tính kế thừa. Ý thức xã hội mới bao giờ cũng kế thừa có chọn lọc ý thức xã hội cũ, sau đó bổ sung, hoàn chỉnh cho phù hợp với tồn tại xã hội đã phát triển.
- Trong quá trình phát triển, các hình thái ý thức xã hội như triết học, đạo đức, nghệ thuật, các khoa học…có tác động qua lại với nhau, trong đó ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, có tác động mạnh mẽ nhất.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội: Ý thức xã hội phản ánh đúng tồn tại xã hội sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ý thức xã hội phản ánh sai tồn tại xã hội sẽ kìm hãm sự phát triển. Ý thức xã hội phản ánh sao tồn tại xã hội sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội thông qua hoạt động thực tiễn.
2,Vận dụng nguyên lý giải quyết vấn đề của thực tiễn:
2.1, Lịch sử hình thành tôn giáo :
2.1.1,.Thời kì đầu : hình thành và phát triển dưới tư tưởng của chủ nghĩa duy tâm
Có thể nói ngay từ khi xuất hiện loài người trên trái đất này thì tôn giáo cũng xuất hiện theo. Như Lênin đã viết : sự sợ hãi đã tạo ra thần linh, con người từ thuở đầu sơ khai vô cùng nhỏ bé và yếu ớt, họ cảm thấy kinh sợ trước sức mạnh của tự nhiên. Trong thế giới quan của họ thiên nhiên được cai quản bởi các vị thần : thần sấm, thần mưa, thần gió... được phác hoạ trong các cuốn Kinh thánh hay các cuốn sách như : Thần thoại Hi lạp, hay các sách kinh của các đạo Hinđu ( đạo của người ấn ).ví dụ như đạo Hinđu là một hệ thống tôn giáo - tín ngưỡng- triết học. Tôn giáo này quan niệm các vị thần cai quản thế giới này như indra( thần sấm ), Surya ( Thần mặt trời ), Varu ( Thần gió ), Agni ( Thần Lửa , Varuna ( thần không trung )... Con người không hề có sự tác động gì đối với thế giới họ đang sống do đó chỉ có cúng tế kêu cầu thì con người mới được Thần linh phù hộ trong mọi công việc.
Chính vì vậy mà trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì : sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự nhiên là nguyên nhân làm nảy sinh và tái hiện tôn giáo. Tôn giáo khi đó là một phần trong đời sống con người bởi nó đã bao gồm những sức mạnh nằm bên ngoài con người và được phản ánh vào trong thế giới quan của con người.
2.1.2,.Thời kì đã hình thành xã hội loài người có giai cấp :
Cho đến khi con người thoát khỏi thời kì sơ khai, và đã có sự hình thành một xã hội loài người rõ rệt thì con người lại trở nên bất lực trước chính những vấn đề của xã hội đó gây ra cho họ. Họ tin vào những con người có sức mạnh toàn năng có thể che chở cho họ và đem lại cho họ cuộc sống hạnh phúc và họ tôn sung những con ngươi đó một cách tuyệt đối : đó có thể là Chúa Giê-su ( đạo Thiên chúa ), Thánh Allah ( đạo Hồi ) hay Đức Phật Thích ca ( đạo Phật ), khi đó tôn giáo bắt đầu được hình thành một cách rõ rệt . Điều đó ta có thể cho là tất nhiên : yếu thì cần phải được che chở, nhưng xét trên quan điểm duy vật biện chứng thì đó lại là một sai lầm : đó là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu một mặt nào đó của năng lực nhận thức, làm cho nhận thức của con người xa rời thế giới hiên thực dẫn đến sự phản ánh sai lầm, hư ảo thế giới đó. Xét về mặt nhận thức và xét trên cặp phạm trù tất nhiên-ngẫu nhiên ta cũng có thể hiểu một phần nào về sự hình thành tôn giáo : đó là do khi xã hội chưa phát triển con người vẫn còn nghèo đói và nhận thức của con người về tự nhiên... vẫn còn hạn hẹp thì sự ra đời của tôn giáo như một điều tất nhiên bởi mỗi tôn giáo đều có những tư tưởng riêng về giới tự nhiên cũng như con người. Con người là một trong “vạn vật ” nhưng đồng thời chính nó lại là quý giá nhất trong toàn bộ thế giới “vạn vật ” .Con người là một sinh vật có năm bẩm tính tự nhiên. Đó là : nhân ,nghĩa, lễ, trí, tín . “Nhân- là lòng nhân ái,khác với bất nhân ở chỗ không phải là người có tâm ác” . Điều đó có nghĩa là biết thương người ,yêu người . Nghĩa – là chính nghĩa đồng thời còn là nghiã vụ ,tức là thực hiện bổn phận của mình .Lễ - là lễ độ cách cư xử tức là tuân theo đạo để trưởng thành .Trí - là sự hiểu biết ,tức là quan sát và nhận thức sâu , không lầm lẫn , nắm bắt cái huyền vi và tìm tòi tâm lý . Tín - là lòng chân thành , là tính chân thực tức là nhất mực trung thành với một ai hoặc một việc gì đó mà không dao động ,nghiêng ngả. Nếu nói sự ra đời của tôn giáo là một hiện tượng thì bản chất của nó cũng chỉ phản ánh sự yếu ớt của con người trước những vấn đề của tự nhiên và xã hội , bởi hầu hết các tôn giáo đều quan niệm đều coi bản thân con người là thực sự yếu ớt và nhỏ bé và luôn có một sức mạnh siêu nhiên nào đó để họ cầu cứu : Chúa trời, Thánh Alla, Đức Phật...như đã nói ở trên.
2.2,Bản chất ,nguồn gốc,và chức năng của tôn giáo
2.2.1, Bản chất :
Dựa trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử , cũng như những quan niệm của C.Mác về tôn giáo , Ph. Ăng-ghen đã đưa ra một định nghĩa về tôn giáo từ góc độ triết học như sau : “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” . Định nghĩa này không những đã chỉ ra được bản chất của tôn giáo mà còn chỉ ra con đường hình thành ý thức hay niềm tin tôn giáo. Ở định nghĩa trên chúng ta thấy rằng ,Ph. Ănghen đã tiếp tục luận điểm cho rằng con người sáng tạo ra tôn giáo (tất nhiên con người ở đây là con người của hiện thực lịch sử ).Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện thông qua con đường nhận thức . Chủ thể tạo ra tôn giáo là con người , đối tượng của sự phản ánh mà con người sáng tạo ra tôn giáo là sức mạnh ở bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của con người ,còn phương thức nhận thức để tạo ra tôn giáo là phương thức hư ảo .Với chủ thể , đối tượng và phương thức của nhận thức như trên thì kết quả là con người tạo ra cai siêunhiên thần thánh trong đầu óc của mình thuộc lĩnh vực ý thức ,niềm tin.
Định nghĩa của PH. Ănghen về tôn giáo tuy là định nghĩa có tính chất bao quát về hiện tượng tôn giáo ,là định nghĩa rộng những cũng đã chỉ rõ cái đặc trưng , cái bản chất của tôn giáo đó là niềm tin hay thế giới quan hoang đường hư ảo của con người . Sự ra đời hiện tượng tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan ,vì khi con ngưòi bị bất lực trước sức mạnh của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp cho sự bất lực ấy . Điều đó cũng có nghĩa là bản chất của tôn giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng đền bù hư ảo của nó .
2.2.2, Nguồn gốc :
VI.Lê-nin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nảy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo .Nguồn gốc đó bao gồm : Nguồn gốc xã hội ,nguồn gốc nhận thức ,nguồn gốc tâm lý .
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện khách quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn giáo .Trong đó có một số nguyên nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa con người với con người .Chúng ta thấy rằng ,sự thống trị của tự nhiên đối với con người không phải được quyết định bởi những thuộc tính và quy luật của bản thân giới tự nhiên mà được quyết định bởi tính chất mối quan hệ của con người với tự nhiên ,nghĩa là bởi sự phát triển kém của lực lượng sản xuất xã hội mà trước hết là công cụ lao động .Như vậy không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo mà là mối quan hệ đặc thù của con người với tự nhiên ,do trình độ sản xuất quyếtđịnh . Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt đối hoá ,sự cương điệu mặt chủ thểcủa nhận thức con người(hay hình thức chủ quan của nó),biến nó thành cái không còn nội dung khách quan , không còn cơ sở “thế gian” , nghĩa là thành cái siêu nhiên thần thánh .
Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo theo Phoiobac không chỉ bao gồm những tình cảm tiêu cực (sự lệ thuộc sợ hãi ,không thoả mãn , đau khổ ,cô đơn ,..)mà cả những tình cảm tích cực (niềm vui ,sự thoả mãn,tình yêu ,sự kính trọng …)không chỉ những tình cảm ,mà cả những điều mong muốn , ước vọng ,nhu cầu khắc phục những tình cảm tình cảm tiêu cực muốn được đền bù hư ảo .
2.2.3, Chức năng xã hội của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội ,nguồn gốc của nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của xã hội trong những giai đoạn phát triển xã hội nhất định ,nghĩa là ở các mối quan hệ hạn chế của con người trước những sức mạnh tự nhiên và đối với nhau. Sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự nhiên và xã hội đã nảy sinh ra nhu cầu đềnbù sự hạn chế của các mối quan hệ hiện thực ,quan hệ “trần gian”-thế giới bên kia. Vì thế có thể gọi chức năng đền bù hư ảo là chức năng chủ yếu và đặc thù của tôn giáo .
Luận điểm nổi tiếng của C.Mác : “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo . Giống như thuốc phiện tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự làm nhẹ” tạm thời nỗi đau khổ của con người , an ủi cho những mất mát ,những thiếu hụt hiện thực của đời sống con người , đồng thời gây ra những tác động có hại đối với con người khi tạo ra ở họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực ,tiêm nhiễm cho họ những quan niệm phản khoa học .
Trong những điều kiện lịch sử cụ thể ,tôn giáo thậm chí có thể là chỗ dựa tinh thần cho những ước muốn chân chính của quần chúng bị áp bức ,phục vụ cho lợi ích của họ .Ví dụ nó đã từng làm vỏ bọc tư tưởng của các phong trào xã hội tiến bộ .Nhưng ở đây nó vẫn không hề mất chức năng đền bù hư ảo ,vì hạt nhân cơ bản của các tôn giáo -niềm tin vào cái siêu nhiên –luôn luôn gây tác động kìm hãm đối với tính tích cực của quần chúng , chuyển hướng niềm tin và sự nỗ lực của họ vào con đường hư ảo . Chính vì vậy VI.Lê nin đã nhấn mạnh : “Tôn giao là thuốc phiện đối với nhân dân – câu nói đó của C.Mác là hòn đá tảng của toàn bộ quan điểm của chủ nghĩa Mác trong vấn đề tôn giáo .
2.3, Các loại tôn giáo :
Kiểu tôn giáo hiện đại ra đời nhằm làm cho tôn giáo phù hợp với sự phát triển mới của lịch sử xã hội . đặc trưng của kiểu tôn giáo này là nó đã có giáo lý,giáo luật,có hệ thống lễ nghi thờ cúng chặt chẽ , và đặc biệt là có tổ chức - nghĩa là nó đã là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng.
Tôn giáo dân tộc (hay quốc gia) gắn liền với xã hội có giai cấp đầu tiên(xã hội chiếm hữu nô lệ) điển hình là tôn giáo đa thần của Hy Lạp vị thần đứng đầu trong vạn thần miếu (Pantheon ) là thần Dớt -vị chúa tể trên trời , rồi đến các vị thần như:
thần biển (pô-xê-i-đông),thần Tình yêu và sắc đẹp (A-pho-ro-di-ta),thần Mặt trời (A-po-long)v.vv..
Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia , các vị thần được tạo nên do ảo tưởng tôn giáo của nhân dân đều là những vị thần có tính chất quốc gia , quyền lực của các vị thần đó không vượt ra ngoài khu vực . Như C.Mác đã nhận xét “tôn giáo chân chính “của các dân tộc thời cổ là sự thờ cúng mang “ tính quốc gia ” riêng ,”tính nhà nước riêng” . Chính vì có mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo dân tộc với quốc gia dân tộc mà khi nẩy sinh những vấn đề dân tộc thường kéo theo vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo thế giới thường gắn với những bước ngoạt quan trọng trong lịch sử đụng chạm tới số phận đa số người .Ví dụ : đạo Phật xuất hiện vào thế kỷ thứ VI – V trước công nguyên là hệ tư tưởng của các nhà nước chiếm hữu nô lệ lớn nhằm thay thế đạo Bà la môn là tôn giáo có tính chất thị tộc. Đạo Cơ đốc xuất hiện vào thế kỷ thứ I sau công nguyên , ở cuối thời kỳ khủng hoảng kinh tể chính trị -xã hội của chế độ La Mã đa dân tộc ,mở đầu cho sự ra đời chế độ xã hội mới-chế độ phong kiến . Đạo Hồi xuất hiện vào thế kỷ thứ VII sau công nguyên gắn liền với các bộ lạc A-ra-vin lên chế độ phong kiến .
Tôn giáo thế giới thực hiện sự truyền bá đến mọi người (không phân biệt giới , địa vị xã hội , đặc điểm dân tộc hay chủng tộc),coi mọi người bình đẳng thiêng liêng và có chung một nhu cầu được giải thoát khỏi đau khổ.Còn sự hưởng lạc ở thế giới bên kia thì theo sự truyền bá của tôn giáo thế giới ,không phụ thuộc vào địa vị xã hội của mỗi người như đối với các tôn giáo dân tộc ,mà phụ thuộc vào đạo đức của giáo dân .
2.4,Về sự phát triển tôn giáo ở Việt Nam :
Vào nửa đầu những năm 70 của thế kỷ XX , ở Miền Nam Việt Nam người ta thống kê được hơn 30 tôn giáo Việt Nam ,trong đó có 2 tôn giáo có số lượng tín đồ đông ,có hệ thống giáo lý tương đối chặt chẽ,có hệ thống tổ chức,còn tồn tại phát triển cho đến ngày nay , đó là đạo Cao Đài và đạo Hoà Hảo.
Đạo Cao Đài hay “Đại đạo Tam kỳ Phổ Độ” là sự thống nhất của 5 ngành đạo :Nhân đạo (đạo Khổng) ,Thần đạo (đạo thần của Trung Hoa ),Thánh đạo (đạo Công giáo ),Tiên đạo (đạo Lão)và Phật đạo (đạo Phật).Thực chất đây là sự vay mượn của các tôn giáo đã có mặt ở Việt Nam để thu hút tín đồ với tư cách là những cư dân phức tạp ở vùng Nam Bộ . “Phổ độ” là cứu vớt (theo cách nói của Phật giáo hay cứu vớt theo cách nói của Công giáo ,Còn “Tam Kỳ” được giải thích là 3 thời kỳ lịch sử gắn với 3 lần cứu vớt chúng sinh của Ngọc Hoàng thượng đế .Vì vậy vị thần cao nhất mà đạo Cao Đài tôn thờ là Ngọc Hoàng thượng đế (danh xưng Cao Đài ).
Đạo Hoà Hảo ra đời năm 1939 ở làng Hoà Hảo ,quận Tân Châu ,tỉnh Châu Đốc (An Giang ngày nay ). Đạo Hoà Hảo còn gọi là Phật giáo Hoà Hảo vì sự ra đời của nó xét về mặt tín ngưỡng tôn giáo ,thì nó là sự phát triển nối tiếp của Phật giáo Việt Nam nói chung và của một số phái Phật giáo ở Nam Bộ nói riêng . Đạo Hoà Hảo là sự truyền bá khéo léo kết hợp giữa tư tưởng tôn giáo với tinh thần chống thực dân chống đế quốc ;kết hợp giữa truyền giáo và chữa bệnh ,nên có sự thu hút lớn đối với quần chúng nhân dân .
Ngoài 2 đạo nói trên Tôn giáo Việt Nam không thể không kể đến sự phát triển của Phật giáo ,Ki Tô giáo (đạo Thiên Chúa ), đạo tin lành (ở vùng dân tộc thiểu số ), thờ cúng tổ tiên ( phổ biến nhất ) .
Sau những thăng trầm của lịch sử ,năm 1981 Phật giáo Việt Nam đã tiến hành đại Hội lần I thành lập một tổ chức thống nhất : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với phương trâm hoạt động là : “Đạo Pháp – Dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội ” . Hiện nay Phật giáo có khoảng 7 triệu tín đồ và hơn 20 nghìn nhà tu hành . Tín đồ phật giao có mặt ở 60/61 tỉnh thành.
Vào những năm đầu của năm 1975 đất nước được thống nhất ,năm 1980 Hộ đồng Giám mục Việt Nam được thành lập và đã ra một bức thư chung xác định đường hướng hoật động của Giáo Hội là: “Sống Phúc âm trong lòng dân tộc cùng đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” .Hiện nay đạo Thiên Chúa có khoảng 5 triệu tín đồ có mặt ở khắp mọi nơi ,tín đồ đạo giáo có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ,thực hiện phương châm chống “ Tốt Đời - Đẹp Đạo ”.
Thờ cúng tổ tiên : là loại hình tín ngưỡng tiêu biểu . Nếu xem xét thờ cúng Tổ tiên ở góc độ truyền thống thì đó làtruyền thống nhớ ơn những người đã khuất thuộc về huyết tộc của mình . Còn xem xét thờ cúng Tổ tiên ở góc độ tín ngưỡng tôn giáo thì thờ cúng tổ tiên liên quan đến quan niệm về linh hồn ,về thế giới bên kia,về cuộc sống sau khi chết . Ở góc độ này thờ cúng tổ tiên là sự thờ cúng vong linh của những người đã khuất để cầu mong sự che chở , sự giúp đỡ ,sự phù hộ của những người đã khuất đối với những người đương sống. Biểu hiện của thờ cúng Tổ tiên qua ma chay , giỗ tết , trong những công việc trọng đại của gia đình hay của một thành viên trong gia đình.
2.5, Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo:
2.5.1,Mặt tích cực
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã nhận đinh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tôn giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa.Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ Trong Phát hiện ấn Độ, J.Nehru đã viết: "Rõ ràng là tôn giáo đã đáp ứng một nhu cầu trong tính chất con người và đa số người trên thế giới đều không thể không có một dạng tín ngưỡng nào đó... Tôn giáo đã đưa ra một loại giá trị cho cuộc sống con người, mà dù một số chuẩn mực ngày nay không còn được áp dụng, thậm chí còn tai hại, nhưng những chuẩn mực khác vẫn còn là cơ sở cho tinh thần và đạo đức". Vấn đề đặt ra là, cần nhận điện đúng vai trò của đạo đức tôn giáo nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chế những tác động tiêu cực của nó đối với việc hoàn thiện nhân cách con người hiện nay
2.5.2,Mặt tiêu cực
Tuy nhiên, đạo đức tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người đến hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động, sáng tạo của con người Khi đã tin vào tôn giáo thì một số người trở nên quá phụ thuộc,bị động ,và có thể không kiểm soát được hành động của mình.Đặc biệt thì có một số người đã không hiểu hết tôn giáo và họ trỏ thành những người trở nên mê tín dị đoan.Trong khi tôn giáo bù đắp hư ảo cho con người ,hướng con người đến cái thiện khi con người sợ hãi đến sự tồn tại của mình tôn giáo vẽ ra những thế giới sau khi con ngườichết,trong khi đó thì mê tín đưa con người chìm sâu vào sự u mê không tin tưởng vào thế giới bên ngoài ,bị thụ động. Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống không hành động, không đấu tranh
2.6,Ảnh hưởng của phật giáo tới thế hệ trẻ
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống Nhà trường ở các cấp học phổ thông không có chương trình giảng dạy lịch sử,vì thế phần lớn những hiểu biết của chúng ta về Phật giáo trước hết là chịu ảnh hưởng tự nhiên của gia đình, sau đó là từ bạn bè, thầy cô và những mối quan hệ xã hội khác. Trong đó ảnh hưởng của gia đình có tác động lớn lên mỗi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi người đều theo đạo phật hoặc không theo một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục quan trọng đi lễ chùa vào những ngày âm quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm ... Người già thường nói chuyện với con cháu về Đức Phật, Bồ Tát, về đạo lý làm người dựa vào các giáo lý Phật giáo. Những suy nghĩ quan niệm này có thể phai nhạt, thậm chí đi ngược lại khi ta gặp một trào lưu tư tưởng mới, đem lại một thế giới quan mới từ trong môi trường gia đình chúng ta phần nào đó chịu ảnh hưởng của đạo phật nhưng không sâu sắc như các triều đại trước và mục đích tìm đến Đạo phật không còn mang tính hướng đạo chân chính như trước kia nữa. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết do sự xâm nhập của nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề xây dựng hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận thức được về cơ bản giữa mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi, bên kia thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một mô hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và hoàn thiện cả xã hội.
Đấy là những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, của xã hội. Do đó, nó nhanh chóng được thanh niên ủng hộ, tiếp thu. Do có một số quan điểm ngược lại nên tất yếu Phật giáo không còn giữ một vai trò như trước đây nữa.
Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong đời sống con người đều có bước nhayvọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục ... Đạo đức nhà Phật bị mất giá trị nhân đạo nhờ chính thái độ yếu thế này, khi những nhu cầu về thể xác bị coi là trần tục, kém đạo đức. Nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm trên càng không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày nay những người đi chùa hầu hết không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Phật giáo bác học cũng bị mai một nhiều, không còn phát huy vai trò hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức được hết vai trò của họ trong việc xây dựng hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Chẳng hạn các buổi giảng kinh đàm đạo các buổi lễ trên chùa chưa được tổ chức theo tinh thần khai thác những tinh thuý của đạo lý Phật giáo, mà phần nhiều theo thị hiếu: Cầu an, giải hạn, cầu lộc ... của giới bình dân. Phật giáo bình dân cũng sa sút. Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất ... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện - ác. Như vậy mục đích đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
Nhưng ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ thông, các tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”., “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó” ,... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp chúng ta, những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo ... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34896.doc