Viện kiểm sát tham gia phiên tòa “đối với những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại” (khoản 2 Điều 2 ) cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 2 Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92. Khi đó, tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm)[25] trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đương sự – chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là có căn cứ và hợp pháp”. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi tòa án thông báo về việc khởi kiện của nguyên đơn“Trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” (khoản 1 Điều 175). Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó “Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án; Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc không nộp đầy đủ đó…” (khoản 1 Điều 84 ). Tại phiên tòa sơ thẩm “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221). Đương sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm “kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ xung nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm “đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ” (khoản 3 Điều 271). Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự cũng có thể giao nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hoặc viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát huy hết khả năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ.
2.2. Đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
Một trong những lý do để xếp hai hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cùng một giai đoạn chứng minh là vì không thể tách bạch một cách cơ học rõ ràng từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Hai hoạt động này đan xen, diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi không những phải có hệ thống chứng cứ đầy đủ mà còn đòi hỏi chủ thể nghiên cứu, đánh giá phải nhìn nhận một cách toàn diện, đặt hệ thống chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Yêu cầu đặt ra là phải loại bỏ được những yếu tố mang tính “ngẫu nhiên”, tìm ra các yếu tố “tất nhiên” – mang tính quy luật nội tại mới có thể nhận thức chính xác vụ án.
Thông thường, hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là của thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án hoặc các thành viên của hội đồng xét xử và phải tuân theo nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định tại Điều 96 BLTTDS:
“1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị của từng chứng cứ.”
Quy định này là cần thiết vì tòa án là cơ quan phán xử đòi hỏi việc xem xét phải thật sự công bằng và không thiên vị bên nào. Nhưng để tòa án nhận biết được nhanh nhất, khách quan nhất thì các đương sự và một số chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và thực tế đã cho thấy, rất nhiều vụ án hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của tòa án đạt hiệu quả cao lại dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của đương sự. Điều này thể hiện tính tích cực của đương sự trong hoạt động này.
Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự, đương sự có một số quyền như:
Đương sự có quyền “được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Khi có quyền được biết này, đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương.
Tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều 199, 200, 201), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 221), được trình bày quan điểm ý kiến của mình (Điều 197), được tham gia hỏi tại phiên tòa (Điều 222) và đặc biệt BLTTDS đã dành một phần là mục 4 chương XIV để quy định về việc tranh luận giữa các đương sự, đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của đương sự trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như trong quá trình chứng minh. Đây luôn là phần hấp dẫn nhất của một phiên tòa khi mà các bên được tự do thể hiện ý chí, quan điểm của mình, vận dụng những hiểu biết pháp lý và kinh nghiệm tố tụng để bảo vệ quan điểm đó. Sự tranh luận này có hệ quả trực tiếp đến phán quyết của tòa án giải quyết vụ việc.
2.3. Vai trò chứng minh nổi bật của đương sự trong sự so sánh với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh
Chủ thể của hoạt động chứng minh là những người bằng hành vi của mình tham gia vào quá trình xác minh có hay không những tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của các bên trong quá trình giải quyết vụ án. Chủ thể của hoạt động chứng minh không chỉ có các đương sự mà còn nhiều người khác như người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích công cộng, Viện kiểm sát và Tòa án. Xuất phát từ vị trí, vai trò của những chủ thể này là khác nhau khi tham gia quan hệ tố tụng nên vai trò chứng minh và phạm vi chứng minh của họ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì vai trò chứng minh của các chủ thể này cũng phái sinh từ vai trò chứng minh của đương sự.
* Người đại diện của đương sự
Người đại diện của đương sụ trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người đại diện theo pháp luật bao gồm có cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác (Điều 142 BLDS), ngoài ra cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật cho người được khởi kiện (Điều 73 BLTTDS), người được tòa án chỉ định để đại diện cho đương sự tham gia tố tụng (Điều 76 BLTTDS).
Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng thông qua một giấy ủy quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người được đại diện, phạm vi đại diện được ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy quyền đó. Có thể đại diện một phần hay toàn bộ nhưng trong vụ án ly hôn, đương sự không thể ủy quyền cho người khác tham gia thay mình.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại điều 74 BLTTDS:
“1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện.
2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền.”
Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong việc đề ra các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Nhưng dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương sự thì vai trò chứng minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh của đương sự. Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định người đại diện cho họ. Hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay mặt” đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng chấm dứt.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế hơn. Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (khoản 1 Điều 64 BLTTDS). Những người này có thể là luật sư hoặc bất cứ chủ thể nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền:
“2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” (Điều 64 BLTTDS).
Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi được “nhờ”, đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhưng do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cầu cứu đến sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh, việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể không có mặt tại phiên tòa ( Điều 203 BLTTDS ).
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của người bảo vệ quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ cùng thuộc nhóm người tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đương sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng minh đương sự vẫn tự mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Điều này cũng là một minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của đương sự.
* Viện kiểm sát
Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa “đối với những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại” (khoản 2 Điều 2 ) cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 2 Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92. Khi đó, tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm)[25] trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét.
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251, khoản 5 Điều 287 BLTTDS, có quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều 262), tham gia phiên tòa (khoản 2 Điều 264), có quyền phát biểu ý kiến (điểm b khoản 1 Điều 271, khoản 1 Điều 295, Điều 310)…
Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt động chứng minh một cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của Viện kiểm sát do luật định, sau khi đương sự thực hiện hoàn tất quyền và nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên thực hiện quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế của nhà nước – đây là một nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm sát cũng không thể thực hiện hoạt động chứng minh của mình.
* Tòa án
Để nghiên cứu vai trò chứng minh của tòa án cần nhận thức rõ thái độ cụ thể của tòa án khi tiến hành tố tụng dân sự. Tòa án – thể hiện cụ thể trong một vụ án dân sự là thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án đó giữ thái độ trung lập (bởi đây là những tranh chấp mang tính chất “tư”), đề ra đối tượng chứng minh và đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng minh của các bên đương sự. Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng minh của đương sự. Khi đương sự trình bày sự kiện, xuất nạp giấy tờ, yêu cầu của mình và liên hệ trực tiếp đến yêu cầu đó bằng những chứng cứ, kết quả sẽ tùy thuộc vào việc có hay không những bằng cớ cụ thể. Như vậy, mục đích của việc chứng minh là khác nhau. Trong khi tòa án phải chứng minh tính khách quan trong vụ án, phán quyết đưa ra phải công bằng với cả hai bên trong phạm vi hoạt động chứng minh của họ thì đương sự lại chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như hoàn toàn có thể phủ nhận yêu cầu hay phản yêu cầu của đương sự bên kia.
Vai trò chứng minh của tòa án thể hiện ở một số quyền và nghĩa vụ như: tự mình tiến hành thu thập chứng cứ trong một số trường hợp quy định tại mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của HĐTPTANDTC về chứng cứ và chứng minh. Yêu cầu đương sự nộp bổ sung chứng cứ khi “xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết” (khoản 1 Điều 85). Theo yêu cầu của đương sự tòa án sẽ quyết định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá tài sản, lấy lời khai của người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, đối chất… có quyền nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo điều 96, 97 BLTTDS, đây là điều hiển nhiên vì tòa án là người tiến hành hoạt động lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải quyết. Tại phiên tòa, HĐXX có quyền hỏi những người tham gia phiên tòa như đương sự, người làm chứng…
Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu trong giai đoạn nghiên cứu, đánh giá chứng cứ mà những chứng cứ này là do đương sự cung cấp. Như đã làm rõ, không có giai đoạn thu thập, cung cấp chứng cứ thì cũng sẽ không có giai đoạn nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên cũng không thể nào nói rằng hoạt động chứng minh do tòa án và đương sự thực hiện mỗi người một nửa vì đương sự cũng thực hiện việc nghiên cứu đáng giá chứng cứ tại phiên tòa cũng như được quyền biết, sao chép… tạo cơ sở cho việc tranh luận. Tòa án cũng thu thập chứng cứ mặc dù có hạn chế nhưng việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ được thể hiện rõ ràng. Đây là những hoạt động xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau nhưng vai trò của đương sự thể hiện rõ ràng hơn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình – bản chất của tố tụng dân sự. Việc đương sự có chứng minh được hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phán quyết của tòa án “lý luận và thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án đã cho thấy, việc không chứng minh được một sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự có thể kéo theo việc ra một quyết định không có cơ sở làm sâm phạm đến quyền lợi của các bên đương sự không hoàn thành được nghĩa vụ chứng minh của họ”. Như vậy, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt động chứng minh của đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án và bản án là một sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đương sự.
3. Những giải pháp cụ thể để hiện thực các quy định của pháp luật về vai trò chứng minh của đương sự
Trong quá trình nghiên cứu BLTTDS 2004 về vai trò chứng minh của đương sự có thể nhận thấy một số điểm còn hạn chế. Dưới đây xin đi vào chỉ rõ những hạn chế đó đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể để giải quyết
3.1 Tạo điều kiện để đương sự có thể tiếp cận, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
Thứ nhất, theo quy định của bộ luật TTDS hiện hành thì các đương sự có quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Tuy nhiên, trên thực tế quyền quan trọng này của đương sự rất khó có thể thực hiện được. Thông thường thì chỉ khi nguyên đơn khởi kiện thì các tài liệu chứng cứ và đơn khởi kiện được thông báo cho phía bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được biết (Điều 174 – BLDS) và từ đó họ sẽ có văn bản trả lời (Điều 175 – BLDS). Còn trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án dân sự khi các bên xuất trình chứng cứ mới hay những chứng cứ do tòa án thu thập được thì các bên đương sự chỉ có “quyền được biết” thông qua hoạt động sao chụp tài liệu, chứng cứ ở tòa án. Nhưng chính quyền được biết này lại mang tính chất chung chung khi không quy định một cách cụ thể ai là người phải thông báo cho đương sự khi có những chứng cứ mới được đưa ra. Khi có yêu cầu sao chụp phải có đơn yêu cầu và trong đơn “phải ghi cụ thể những tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp”. Khi đương sự đã không biết những chứng cứ, tài liệu do bên kia cung cấp thì làm sao biết được mình cần sao chụp những gì? Đây là một quy định không thực tế. Đặt trong hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam khi mà trình độ hiểu biết còn thấp việc hiểu biết về luật TTDS còn hạn chế nên không thể nào biết cũng như thực hiện quyền này của mình. Cá biệt trong nhiều trường hợp chứng cứ được cung cấp tại cấp phúc thẩm, các bên đương sự còn lại không thể có thời gian thu thập những chứng cứ để phản bác lại lập luận dựa trên chứng cứ mới của bên kia gây bất lợi cho họ
Chính vì vậy, BLDS nên tiếp thu một số kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới như Pháp, Liên Bang Nga cũng như pháp luật tố tụng dân sự trong một số thời kỳ ở nước ta về việc quy định bắt buộc các bên đương sự khi cung cấp một chứng cứ mới cho tòa án để giải quyết yêu cầu của mình thì đồng thời với đó phải thông báo bằng văn bản hoặc có thể photo một bản cung cấp cho bên còn lại – Đây được gọi là nguyên tắc đối tịch[36]. Nguyên tắc này vẫn có thể dẫn đến tình trạng bên được thông báo cố tình phủ nhận việc thông báo đó gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Nên các văn bản hoặc tài liệu photo này sẽ được chuyển cho bên còn lại thông qua tòa án – một cơ quan nhà nước có hoạt động chặt chẽ sẽ đảm bảo được tính nhanh chóng và quyền lợi của các bên. Nếu bên cung cấp chứng cứ cố tình không cung cấp bản sao hoặc văn bản thông báo cho bên còn lại thì có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để cưỡng chế. Thời gian thông báo do thẩm phán ấn định tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể vì có thể thời gian chuẩn bị xét xử còn lại ngắn nhưng cần giới hạn trong khoảng từ 1 – 5 ngày. Đối với những trường hợp đương sự cung cấp chứng cứ mới tại cấp phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 271 BLTTDS cần có quy định bổ xung là các chứng cứ mới này trước đó đương sự “không biết” hoặc “không thể biết”để tránh trường hợp đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ không cung cấp nhằm kéo dài quá trình tố tụng hoặc để gây bất lợi cho đương sự khác vì bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Khi không thể làm rõ về sự “không biết” hoặc “không thể biết”này thì không thể phủ nhận những chứng cứ này vì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người đưa ra chứng cứ, nên có thể quy định về chế tài phạt phải chịu án phí đối với những đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ đến cấp phúc thẩm mới cung cấp.
Thứ hai, trên thực tế có thể thấy hoạt động chứng minh là chỉ cho thấy rõ là đúng, là có thật bằng lý lẽ hoặc bằng chứng cứ đây là công việc chủ yếu của đương sự. Tuy nhiên, việc có công nhận là đúng, là có thật hay không lại thuộc về tòa án. Hiện nay các tòa án vẫn thường có quan niệm rằng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về phía đương sự, còn nghĩa vụ chứng minh thuộc về tòa án. Đồng nhất nghĩa vụ cung cấp chứng cứ với nghĩa vụ chứng minh, các bên đương sự chỉ thực hiện một phần nhỏ quyền, nghĩa vụ nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa. Đây là một nhận định hoàn toàn sai lầm. Do đó, cần thiết phải để các đương sự tham gia vào đầy đủ các giai đoạn của hoạt động chứng minh từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu đánh giá chứng cứ mới có thể phát huy được vai trò quan trọng và trung tâm của họ.
Một trong các biện pháp có thể áp dụng để khắc phục được nhược điểm này là hình thành một phiên tòa trù bị. Phiên tòa trù bị sẽ do một thẩm phán được phân công xét xử vụ việc đó chủ trì. Phiên tòa bao gồm các bên đương sự, họ sẽ được xem xét toàn bộ các chứng cứ có trong hồ sơ đồng thời đưa ra nhận định của mình thể hiện quyền nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Phiên tòa trù bị sẽ không có bất cứ một phán quyết nào được đưa ra. Tuy nhiên, nó sẽ có vai trò vô cùng quan trọng tác động đến thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi đó họ sẽ có một cái nhìn khách quan hơn toàn diện hơn về vụ việc có tranh chấp. Đồng thời với đó là các bên đương sự có thể nhận định một cách tỉ mỉ về vụ án, chuẩn bị tốt nhất cho phiên tòa chính thức diễn ra theo đúng quan điểm tranh tụng, phát huy dân chủ đối với các bên và tăng cường được sự tin tưởng của đông đảo nhân dân. Phương án này có thể dẫn đến một khó khăn khác là gây ra việc kéo dài tố tụng cũng như tốn kém thời gian. Tuy nhiên, chỉ với một thẩm phán tham gia chủ trì cũng như thời gian tiến hành ngắn (chỉ một ngày) so với hiệu quả thiết thực mà nó mang lại thì phương án này hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Thứ ba, một trong những vướng mắc diễn ra khá phổ biến trong thời gian vừa qua khi áp dụng bộ luật TTDS liên quan đến việc tiếp cận chứng cứ của đương sự chính là ở chỗ các chứng cứ, tài liệu nằm trong sự kiểm soát của các cá nhân, cơ quan tổ chức khác mà họ lại không phối hợp giúp đỡ các đương sự cũng như tòa án trong việc cung cấp các loại chứng cứ này. Có thể thấy rằng thời gian tiến hành họat động tố tụng đối với một vụ án cụ thể thường rất ngắn (thông thường từ 2- 4 tháng) nếu như những cá nhân, cơ quan tổ chức này cố tình kéo dài, không cung cấp chứng cứ thì sẽ làm cho việc tự bảo vệ của đương sự khó khăn hơn rất nhiều. Cá biệt có trường hợp khi tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức này chỉ cung cấp một cách vụn vặt các chứng cứ hoặc ở mỗi giai đoạn lại cung cấp những chứng cứ khác nhau thậm chí đối lập nhau ảnh hưởng lớn đến tính ổn định của bản án.
Bộ luật TTDS hiện hành chỉ quy định một cách rất chung chung về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tại đoạn 2 khoản 2 Điều 94 “ Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của tòa án trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu” mà không có quy định cụ thể để đảm bảo nghĩa vụ đó. Vì vậy, cần có một hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Theo đó, khi không thể cung cấp được chứng cứ thì phải thông báo cụ thể bằng văn bản đồng thời với đó là quy kết trực tiếp vấn đề trách nhiệm. Đối với tổ chức thì quy trách nhiệm cụ thể về người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó để họ có thể thực hiện nghĩa vụ này mà không hề có sự cản trở nào. Đối với cá nhân, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời thì có thể quy định vấn đề phạt tiền để răn đe tùy thuộc vào tính chất cũng như mức độ vi phạm.
3.2 Tạo điều kiện để đương sự có thể tự bảo vệ
Đương sự có vai trò quan trọng hàng đầu, họ phải tự bảo vệ lấy quyền và lợi ích của mình khi có tranh chấp xảy ra phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, điều này khác hẳn so với trong tố tụng hình sự khi mà bị can bị cáo có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự là thuộc về phía tòa án đương sự hoàn toàn có thể “im lặng” mà quyền và lợi ích của họ trong một chừng mực nhất định vẫn được bảo đảm. Mặc dù vậy, có thể khẳng định ngay rằng khả năng tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự là rất thấp nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ dân chí chưa cao, sự hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế đặc biệt là ở các vùng sâu vùng xa khi mà người dân đã đi kiện cơ quan điện lực vì đã trồng cột điện “nhìn” vào bàn thờ nhà mình… thì hoàn toàn có thể nhận thấy rằng đây là những đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Năm 1997 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức pháp lý hỗ trợ cho người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, ngày 29/6/ 2006 Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật trợ giúp pháp lý, ngày 23 tháng 6 năm 2008 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 792/QĐ- TTg về việc phê duyệt đề án “Quy hoạch mạng lưới trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và chi nhánh của trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015” đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về vấn đề này. Tuy nhiên theo các văn bản trên đối tượng được hưởng sự hỗ trợ chỉ là đối tượng đói nghèo, người có công với cách mạng,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đương sự – chủ thể của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự.doc