MỤC LỤC
A.ĐẶT VẤN ĐỀ 1
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
22 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 26817 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trong một quốc gia nhiều dân tộc bao giờ cung có một ngôn ngữ chung thống nhất.ngôn ngữ được chọn làm ngôn ngữ thống nhất thường là sản phẩm và là kết quả tất yếu của một quá trình phát triển lâu dài về kinh tế – xã hội của các dân tộc trong một quốc gia.Ngôn ngữ là nền tảng văn hoá , đồng thời là di sản tinh thần của mỗi dân tộc.
Cộng đồng về văn hoá , về tâm lý: Văn hoá là yếu tố đặc biệt trong sự gắn kết cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất.Lịch sử phát triển văn hoá của mỗi dân tộc rất phong phú và đa dạng.Văn hoá của mỗi dân tộc phản ánh kháI quát tính đa dạng chung của các sắc tộc, các cộng đồng dân cư trên cùng một vùng lãnh thổ.đặc trưng chung của văn hoá dân tộc là thống nhất trong tính đa dạng.Nó được chắt lọc trảI dài trong suốt lịch sử đấu tranh để sinh tồn của mỗi dân tộc.Xã hội càng phát triển nhu cầu về văn hoá càng cao.Hơn thế nữa, văn hoá còn là động lực của sự phát triển , là công cụ bảo vệ độc lập và chủ quyền của mỗi quốc gia.Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có những điều kiện vật chất riêng nên văn hoá cũng không đồng nhất.Mỗi dân tộc còn có tâm lý lối sống và những tính cách riêng.Tâm lý và nét tính cách riêng của mỗi dân tộc trước hết là sự phản ánh những điều kiện kinh tế, điều kiện địa lý , dân cư và nét đặc thù văn hoá riêng của dân tộc ấy.
Cộng động về lãnh thổ , cộng đồng về kinh tế , cộng đồng về ngôn ngữ m về văn hoá , tâm lý và tính cách là bốn đặc trưng không thể thiếu của mỗi dân tộc.Đó chính là những yếu tố có mối quan hệ nội lực mạnh mẽ.Các hình thức cộng dồng chung của dân tộc có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển đối với sự phát triển của con người và xã hội.Đấu tranh chống lại sự nô dịch và áp bức dân tộc chính là sự đấu tranh vì sự phát triển và tiến bộ chung của nhân loại.
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa : “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử , khác nhau về quan hệ của họ(thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội ,và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần cảu cải xã hội , ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.Giai cấp là những tập đoàn mà tập đoàn người mà tập đoàn người này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
Như vậy, sự ra đời , tồn tại của giai cấp gắn với những hệ thống sản xuất xã hội nhất định.Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do:
Thứ nhất , khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội.
Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội.
Thứ ba, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhâp những sản phẩm lao động của xã hội.
Trong những sự khác nhau trên đậy, sự khác nhau của họ đối với TLSX có ý nghĩa quan trọng quyết định nhất.Tập đoàn người nào nắm TLSX sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động của tập đoàn khác.Đó là bản chất của những xung đột giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng.
Trong các xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác.Bộ phận này không có vị trí cơ bản trong phương thức sản xuất , nó thường bị phân hoá.Nhân tố chi phối sự phân hoá của các tầng lớp trung gian là lợi ích.Các giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tuỳ thuộc vào vị trí lợi ích của họ.
Giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử .Nó luôn luôn vận động và biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.
Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau .Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính , nghề nghiệp , chủng tộc , dân tộcNhững khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội .Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng.Mác chỉ rằng : “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất ”. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rát thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôI sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên , giai cấp chưa xuất hiện.
Sản xuất ngày càng phát triển phát triển với sự phát triển của LLSX.Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể, phân công lao động xã hội từng bước hình thành ,của cảI dư thừa xuất hiện ,những người có chức,quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng ;chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước.Họ được sử dụng làm nô lệ phục vụ những người giàu có và có địa vị trong xã hội , chế độ có giai cấp chình thức hình thành kể từ đó. Như vậy , sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp.Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ , chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa.Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề khiến cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội.Đó là lôgíc khách quan của tiến trình phát phát triển lịch sử.
Các xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế nhau trong lịch sử.Mỗi kết cấu xã hội – giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau.Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến , tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa.Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế – xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội đó , đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại , sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó.Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại.Ngoài hai giai cấp cơ bản , mỗi kết cấu kinh tế- xã hội còn bao gồm một số giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian.Trong những tập đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ( như nô lệ trogn buổi đầu của xã hội tư bản ) , có tập đoàn là mầm mông của PTSX trogn tương lai( như giai cấp tư sản cà giai cấp công nhân công trường thủ công trogn giai đoạn cuối của xã hội phong kiến ).Ngoài ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũgn có một số tầng lớp trugn gian là sản phẩm của chinh phương thức sản xuất đang thốgn trị , là kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội.Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản.Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế , xã hội , chính trị , văn hoá , đó là tầng lớp tri thức.
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp.V.I.Lênin “định nghĩa đấu tranh của giai cấp bị tước hết quyền , bị áp bức và lao động , chống bọn có đặc trưng ,đặc lợi , bọn áp bực và bọn ăn bám , cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống người hữu sản hay giai cấp tư sản.”
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức ,vô sản đi làm thuê chống laị giai cấp thống trị , chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi ,những kẻ đi áp bức và bóc lột.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội : Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng , tiến bộ , đại diện cho phương thức sản xuất mới , với một bên là giai cấp thống trị , bóc lột , đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời,lạc hậu.
Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tát yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã
hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội.Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử , C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng,đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội.Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi cá hình thái kinh tế xã hội , vì vậy, “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng.Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới , giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng.Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất , cách mạgn khoa học và công nghệ , cải cách về dân chủ và tiên sbộ xã hội.khôgn tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xa hội có giai cấp.Nó là cuộc đấu tranh khác về bản chất so với các cuộc đấu so với trước đó trong lịch sử.Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước khi giành chính quyền , nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tês, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị.Sau khi giành chính quyền , thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản , mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.V.I.Lênin viết “ Trong điều kiện chuyên chính vô sản , những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.Mục tiêu của cuộc đâu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng , xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân ;tổ chức quản lý sản xuất , quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người ,xây dựng một xã hội mới ,công bằng ,dân chủ và văn minh.Đó là mục tiêu ,đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản.
Trong một cộng đồng dân tộc bao giờ cũng có nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau cùng chung sống .Lợi ích dân tộc là lợi ích chung của tất cả các giai cấp, lực lượng xã hội sống trong cộng đồng ấy .Mỗi một giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử , giai cấp nào có lợi ích gắn liền với phương thức sản xuất thống trị, sẽ trở thành lực lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc.
Tuy nhiên , trong các xã hội và những phương thức sản xuất tồn tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất , lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của dân tộc khôgn phải khi nào cũgn thốgn nhất , thậm chí nhiều lúc trái ngược và đối lập với lợi ích dân tộc.Trong xã hội xã hội chủ nghĩa phương thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ,lực lượng sản xuất thuộc về quyền sở hữu chugn của cả xã hội,khi ấy lợi ích giai cấp về cơ bản phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc.Đương nhiên , sự phù hợp được thể hiện trong quá trình giải quyết đúng đắn các mau thuẫn .Ngày nay,chừng nào trong xã hội còn giai cấp đối kháng ,và đấu tranh giai cấp ,vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được giải quyết trên lập trường giai cấp nhất định.
Vấn đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của cả loài người , chẳng hạn những vấn đề chống chiến tranh hạt nhân , bảo vệ môi trường ,vấn đề dân số ,chốgn các loại dịch bệnh đe doạ sự sống còn của cả nhân loại.Lợi ích nhân loại là những nhân tố đáp ứng yêu cầu phát triển của loài người mọi quốc gia ,không phân biệt sự klhác nhau về giai cấp , dân tộc, tôn giáo.
Tuy nhiên trong xã hội có giaic cấp ,lợi ích nhân loại là không tách rời với lợi ích giai cấp ,lợi ích dân tộc và do đó nó bị chi phối bởi lưọi ích giai cấp.
Lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại .Các giai cấp phản động đối với lịch sử thì lợi ích của giai cấp về căn bản mau thuẫn với lợi ích chugn của dân tộc và lợi ích chugn của toàn nhân loại.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng muốn giải phóng mình, giai cấp vô sản phải giải phóng giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản.Vì vậy lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp với lợi ích của nhân loại.
Tư tưởng hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác-Lênin,được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ gnhĩa xã hội ở Việt Nam .Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hôị và giải phóng con người.
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin ,đối với Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản.Từ đây ,Người thực sự tìm thấy được con đường cứu nước chân chính ,triệt để :"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc ,không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và " chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc ;cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cuả cách mạng thế giới"
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin ,tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh có bước nhảy vọt lớn:kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản ,kết hợp dân tộc với giai cấp ,độc lập dân tộc với chủ nghĩa ;nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin .Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa ,Hồ Chí Minh tiếp thu,vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo ,chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc địa ,đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc ,thực dân thống trị và bè lũ tay sai với toàn thể nhân dân,dân tộc không phân biệt giai cấp, tôn giáo.Theo Người ,ở Việt Nam cũng như ở các nước phương Đông , do trình độ sản xuất kém phát triển nên sự phân hoá giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây.Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước ".Người còn cho rằng ,chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế cộng sản là" một chính sách mang tính hiện thực tuyệt
vời ".
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,Hồ Chí Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp .Người khẳng định ,phải đi từ giải phóng dân tộc ,dân tộc không thoát khỏi kiếp trâu ngựa thì ngàn năm giai cấp cũng không được giải phóng.Đường lối của cách mạngVIệt Nam là đi từ giải phóng dân tộc ,xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ,từng bước tíên lên chủ nghĩa xã hội .Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở nền tảng liên minh công nhân ,nông dân,trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Đối với Việt Nam ,Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và địa chủ phong kiến,giữa tư sản với vô sản.Do đó ,không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phuơng Tây.Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề daan tộc rồi mới giải phóng được giai cấp.Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất quyền lợi dân tộc không còn ,thì quyền lợi mỗi giai cấp , mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được.
Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin .Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung.
Tóm lại ,tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam ,là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam ,kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ,tiếp thu tinh hao văn hoá của nhân loại .Tư tưỏng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác- Lênin nằm trong sự thống nhất hữu cơ ;cả hai đều là nền tảng tư tưởng ,kim chỉ anm cho hành động của Đảng ta,nhân dân ta.Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác – Lênin thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh ,cũng không thể hiểu và quán triệt ,vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nếu không nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin.
Mối quan hệ giữa giai cấp, cỏc tầng lớp xó hội là quan hệ hợp tỏc và đấu tranh trong nội bộ nhõn dõn, đoàn kết và hợp tỏc lõu dài trong sự nghiệp xõy dựng xõy dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lónh đạo của Đảng.
Lợi ớch của cụng nhõn thống nhất với lợi ớch toàn dõn tộc trong mục tiờu chung là: Độc lập dõn tộc gắn liền với Chủ nghĩa xó hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện naylà cuộc tiến hành Công nghiệp hoá - hiện đại hoá,định hướng đi lên CNXH
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xã hội vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan không thể tránh danh từ đấu tranh giai cấp, mà là nhận thức cho đúng tính chất, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn các quan hệ xã hội - giai cấp.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng là dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, điều cơ bản là phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền nhân dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ sự nghiệp trên đây là lợi ích căn bản của dân tộc và nhân dân lao động. Tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, các tầng lớp lao động khác, tầng lớp tư sản dân tộc, các nhân sĩ yêu nước... tán thành mục tiêu nói trên. Tuy nhiên một bộ phận nhỏ trong xã họi vì quyền lợi ích kỷ, vì hận thù giai cấp, đã và đang liên kết với các thế lực phản động quốc tế chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta trước hết là cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng van minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo, với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội va an ninh quốc gia.
Các thế lực phản động trong nước và quốc tế chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chủ yếu thông qua “diễn biến hoà bình” nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, làm tan rã về hệ tư tưởng tiến tới lật độ chính quyền nhân dân bằng hình thức này hay hình thức khác.
Cuộc “đấu tranh giữa hai con đường”, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa cũng là biểu hiện của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các nhân tố thúc đẩy đất nước dịch chuyển theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Các nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa này được những thế lực chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lợi dụng phục vụ mục tiêu của chúng. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát triển trên đây diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự xã hội.
Trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở nước ta hiện nay, ngoài công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp tư sản, tầng lớop này có điều kiện phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đương nhiên có mâu thuẫn về lợi ích giữa những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản và có mâu thuẫn giữa sự phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát của thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Đây là nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản, tuy mang tính chất mâu thuẫn giữa lao động vdà bóc lột lao động, song trong điều kiện thời kỳ quá độ nước ta lại là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dana. Kinh tế nhiều thành phần và tầng lớp tư sản có vai trò tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế, có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong xã hội ta hiện nay, lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản căn bản thống nhất với lợi ích chung của cộng đồng. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Quan hệ giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh; đấu tranh với những khuynh hướng tiêu cực của tầng lớp tư sản cũng để thực hiện hợp tác, đoàn kết xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng văn minh.
Cuộc đấu tranh giải phóng hiện nay không còn trực diện như thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc mà nó còn ẩn dấu đằng sau qua các cuộc đấu tranh về kinh tế ,văn háo, tư tưởng.
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp , lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liến với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ hai ( 1924 – 1929) .Cùng với quá trình phát triển của cách mạgn Việt Nam ,giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế.ngoài những đặc điểm chugn của giai cấp côgn nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nứơc vốn là thuộc địa , nửa phong kiến ,có truyền thống yêu nước , ý thức tự tôn dân tộc , dù còn non trẻ , nhỏ bé , song giai cấp công nhân đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lich sử , dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước theo lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc , vừa mới lớn lên , đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin , hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế ,nhanh chóng trở thành lực luợng chính trị tự giác và thống nhất ,được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục , đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng chân lý của thời đại : độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội , giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, giai cấp công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân lao động bị thựuc dân phong kiến bóc lột bần cùng hoá nên có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và tầng lớp lao động khác.Qua thử thách của cách mạgn , liên minh giai cấp đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền , giai cấp công nhân Việt Nam luôn páht huy bản chất cáhc mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc , luôn là lực lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới , sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ năm, quá trình “ tri thức hoá” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ , từng bước hình thành giai cấp công nhân tri thức Việt Nam.
Việc hình thành giai cấp công nhân tri thức không có nghĩa là sự bổ sung vào lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà là giai cấp công nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao đông - lao động điều khiển những công nghệ tụê động hoá của nền kinh tế tri thức.
Là sản phẩm quan trọng của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức ngày càng hiện đại hoá và quốc tế hoá , giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến , luôn nằm ở vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội.Xuất phát từ vị trí địa vị kinh tế – xã hội và từ đặc điểm riêng có của mình ,giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử cao cả là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản , trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới ,trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp.
Về nội dung sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân ,Angghen đã khẳng định “ Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy , - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”(1).Lênin cũng đã chỉ rõ “ Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa “(2)
Vậy là theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin ,phạm trù sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại mới bao gồm 3 nội dung cơ bản nhất :
Một là giai cấp thồng trị về chính trị. Với địa vị t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8950.doc