Tiểu luận Giai cấp và vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay

Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ khăng khít hữu cơ với nhau, không thể tách rời nhau nhưng có vai trò lịch sử khác nhau và không thể thay thế nhau. Trong một dân tộc bao giờ cũng có nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau cùng chung sống. Lợi ích dân tộc là lợi ích chung của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội sống trong cộng đồng ấy. Trong mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, giai cấp nào có lợi ích gắn liền với PTSX thống trị sẽ trở thành lực lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc.

Giai cấp và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời: Giai cấp có trước dân tộc nhưng khi giai cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại.

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 19103 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giai cấp và vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Thị tộc là một đơn vị sản xuất và là một hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thuỷ. Đặc điểm : Nguồn gốc chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi . Vai trò của người phụ nữ trong thị tộc có một vị trí đặc biệt . Thời kì đầu có chế độ quần hôn , cùng với địa vị độc tôn của người phụ nữ trong sản xuất là cơ sở để hình thành hình thức thị tộc mẫu quyền đầu tiên trong lịch sử. Cơ sở tồn tại về kinh tế là quyền sở hữu chung về tư liệu sản xuất và tài sản. Đặc trưng : Đặc trưng về huyết thống là chủ yếu. Đặc trưng về những quan hệ cộng đồng, về ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng, và văn hoá. Có khu vực cư trú, vùng săn bắn và tên gọi riêng. Tổ chức và quản lí xã hội : Lãnh đạo thị tộc là hội đồng thị tộc: bao gồm những người lớn tuổi trong thị tộc với quyền hạn rất lớn. Đứng đầu hội đồng thị tộc là tộc trưởng do mọi người bầu r . Việc quản lí điều hành thị tộc dựa trên nghị quyết của hội nghị dân tộc. 2.1.2. Bộ lạc : Nguồn gốc: Sự phát triển của xã hội cộng với các yếu tố tác động khác đòi hỏi thị tộc phải mở rộng quan hệ với các thị tộc khác .Dẫn tới sự hình thành bộ lạc. Khái niệm : Bộ lạc là tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc do có mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. Đặc điểm : Có hình thức sở hữu cao hơn thị tộc (ngoài sở hữu riêng của thị tộc, bộ lạc còn có sở hữu khác bao gồm vùng lãnh thổ, nơi trồng trọt, ... ) Trong thời kì này công cụ sản xuất bằng kim loại đã được hình thành → tạo thành hình thức phân công lao động xã hội đầu tiên giữa trồng trọt và chăn nuôi, nông nghiệp và thủ công nghiệp → là tiền đề khách quan của sự xuất hiện sở hữu tư nhân. Đặc trưng : Có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hoá tín ngưỡng và cùng chung sống trên một vùng lãnh thổ. Đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc là xác lập về mặt chủ quyền lãnh thổ. Tổ chức và quản lí xã hội : Lãnh đạo bộ lạc là hội đồng các tộc trưởng. Có thủ lĩnh tối cao. Mọi quyền hành quản lí bộ lạc do hội nghị của hội đồng các tộc trưởng và thủ lĩnh quân sự quyết định. Liên minh bộ lạc được hình thành. 2.1.3. Bộ tộc : Nguồn gốc: Để đảm bảo cho sự phát triển của xã hội thì đòi hỏi sự liên kết giữa các bộ lạc để hình thành bộ tộc. Khái niệm :Bộ tộc là một cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh của các bộ lạc trên cùng một lãnh thổ nhất định . Đặc điểm : Bộ tộc đông đảo hơn bộ lạc. Bộ tộc có đặc điểm về kinh tế, văn hoá riêng. Hình thành bộ tộc đánh dáu sự tan rã hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội công xã nguyên thuỷ. Sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời thay thế cho sở hữu tập thể. Đặc trưng : Có cùng lãnh thổ tương đối ổn định. Dân cư đa dạng và đan xen, đa ngôn ngữ, văn hoá. Tổ chức và quản lí xã hội : Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội có giai cấp đầu tiên được hình thành. 2.1.4. Dân tộc: Nguồn gốc : Do đặc điểm phát triển của nền kinh tế thị trường, giai cấp tư sản ngày càng xoá bỏ sự phân tán về tư liệu sản xuất, về tài sản và dân cư, đòi hỏi sự hình thành một dân tộc thống nhất. Khái niệm : Là một cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên kết của tất cả các bộ tộc trên cùng một vùng lãnh thổ. Đặc điểm : Hình thức cộng đồng người gắn kiền với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính trị và nhà nước. Là cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao, ổn định và tương đối bền vững dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao. Có một chính phủ thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất, có tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất. Đặc trưng: Thống nhất rất chặt chẽ Cộng đồng về lãnh thổ. Cộng đồng về kinh tế. Cộng đồng vềngôn ngữ. Cộng đồng về văn hoá, tâm lí. 2.2. Giai cấp và đấu tranh giai cấp : 2.2.1. Khái niệm giai cấp: Giai cấp là phạm trù kinh tế - xã hội có tính chất lịch sử . Giai cấp chỉ xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất. Mỗi giai đoạn phát triển của xã hội, với phương thức sản xuất tương ứng, có một hệ thống giai cấp nhất định. Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin trong tác phẩm “ Sáng kiến vĩ đại ” : “Người ta gọi là giai cấp , những địa tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất nhất định trong lịch sử , khác nhau về quan hệ của họ ( thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận ) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng . Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác , do chỗ các tập đoàn đó có vị trí khác nhau trong một chế độ kinh tế và xã hội nhất định.” 2.2.2. Đặc trưng của giai cấp: Giai cấp có 4 đặc trưng cơ bản: Là những tập đoàn người khác nhau về quyền sở hữu TLSX : có người sở hữu có người không sở hữu. ây là đặc trưng quan trọng nhất. Là những tập đoàn người khác nhau về vai trò tổ chức lao động xã hội Là những tập đoàn người khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập xã hôị. Là những tập đoàn người khác nhau về địa vị xã hội : Trong xã hội có người làm chủ, người làm thuê, không bình đẳng à tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động tập đoàn khác. Các đặc trưng nêu trên liên hệ mật thiết với nhau, trong đó đặc trưng thứ hai là cơ bản, nó chi phối các đặc trưng còn lại, quy định buộc chặt giai cấp. Bản chất giai cấp XH chi phối toàn bộ đời sống XH cả về KT, CT, VH, XH, tư tưởng… không có CT, tư tưởng đạo đức chung cho cả XH. 2.2.3. Nguồn gốc hình thành giai cấp : C.Mác là người đầu tiên đưa ra quan niệm cho rằng: Giai cấp chỉ xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, đó là những giai đoạn phát triển nhất định của sản xuất. Cơ sở tồn tại của giai cấp phải tìm trong sản xuất kinh tế chứ không phải tìm trong hình thái chính trị hay tư tưởng con người Nguồn gốc giai cấp bắt nguồn từ kinh tế: Giai cấp xuất hiện khi lao động xã hội đã có thể tạo ra sản phẩm thặng dư tương đối , khiến cho sức lao động đã có một giá trị mà người ta có thể lợi dụng như đối tượng khai thác để chiếm đoạt sản phẩm thặng dư do lao động tạo ra. Khả năng này chưa xuất hiện thì không thể hình thành chế độ người bóc lột người .Cuối chế độ công xã nguyên thủy, nhờ tìm ra những công cụ bằng kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên, phân công lao động XH phát triển, CN tách rời khỏi trồng trọt; TTCN phát triển thành một ngành nghề độc lập; lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay; chế độ làm chung, ăn chung nguyên thủy không còn phù hợp, SX và tổ chức sinh hoạt theo gia đình có hiệu quả hơn. Sở hữu tư nhân về TLSX gắn với bất bình đẳng về tài sản xuất hiện; XH phân hóa thành những giai cấp bóc lột và bị bốc lột, thống trị và bị thống trị. Nguyên nhân sâu xa của sự phân chia xã hội thành giai cấp là lực lượng sản xuất phát triển trong những giai đoạn phát triển nhất định. Nguyên nhân trực tiếp là do quá trình phát triển các công cụ lao động tăng lên đáng kể , phân công lao động xã hội to đó được hình thành , xuất hiện của cải dư thừa è chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh. Đó chính là cơ sở hình thành giai cấp. Ngoài ra sự phân chia XH thành giai cấp còn gắn với các cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc. Những thị tộc bộ lạc bại trận bị bắt về làm tù binh và biến thành nô lệ. Chế độ có giai cấp đầu tiên trong lịch sử là nô lệ, và cuối cùng là CNTB 2.2.4. Kết cấu xã hội – giai cấp : Kết cấu giai cấp XH vận động biến đổi phụ thuộc vào SX; mỗi hình thái KT-XH đều có một kết cấu giai cấp nhất định; khi HT KT-XH thay đổi thì kết cấu giai cấp cũng thay đổi theo. Trong XH có giai cấp thì thường bao gồm các giai cấp cơ bản và không cơ bản. Những giai cấp cơ bản là những giai cấp xuất hiện tồn tại gắn liền với QHSX thống trị XH (chủ nô và nô lệ, nông dân và địa chủ phong kiến, tư sản và vô sản). Ngoài những giai cấp cơ bản còn có những giai cấp không cơ bản. Mỗi kiểu xã hội có kết cấu giai cấp xã hội riêng nhưng đều bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau : Chủ nô >< Nô lệ trong chế độ nô lệ Địa chủ >< Nông nô trong chế độ phong kiến Tư bản >< vô sản trong tư bản chủ nghĩa Ngoài ra còn có nhứng giai cấp khác: Giai cấp không cơ bản ( ví dụ là tập đoàn giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ hay tập đoàn giai cấp mầm mống của phương thức sản xuất tương lai ). Tầng lớp trung gian bao gồm tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ; tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Tầng lớp tri thức. Nó chỉ được gọi là một tầng lớp chứ không được gọi là giai cấp vì không gắn với một phương thức sản xuất nào. 2.2.5. Khái niệm đấu tranh giai cấp : Theo Lênin định nghĩa: “ Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng cùng khổ, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản” ( Lênin : Toàn tập, Nxb Tiến bộ, 1779, tập 7, tr237, 238).  Đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp mà lợi ích căn bản đối lập nhau, bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất, thể hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Đấu tranh giai cấp là quy luật phổ biến trong XH có giai cấp đối kháng, là động lực cơ bản của sự phát triển XH có các giai cấp đối kháng: trong XH nô lệ giai cấp chủ nô bóc lột những người nô lệ dưới hình thức nô dịch, cưỡng bức trực tiếp, trong XH phong kiến thì giai cấp địa chủ phong kiến quý tộc bóc lột những người nông dân tá điền thông qua tô tức cho vay nặng lãi, trong XH TB thì giai cấp tư sản bóc lột công nhân thông qua giá trị thặng dư. Trước khi giành chính quyền, hình thức của các cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và vô sản là đấu tranh kinh tế, chính trị, tư tưởng. Sau khi giành chính quyền các hình thức đấu tranh giai cấp phải vận dụng linh họat như phải giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng củng cố chính quyền của nhân dân, tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội , bảo đảm tạo ra năng suất cáo trân cơ sở thủ tiêu dần chế độ người bóc lột ngừơi, xây dựng xã hội mới công bằng, dân chủ, văn mi Nguyên nhân : Cội nguồn của mâu thuẫn giai cấp XH xuất phát từ kinh tế. Đó là xung đột giữa LLSX tiên tiến với QHSX lỗi thời. Mâu thuẫn này được biểu hiện về mặt XH thành mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp CM đại biểu cho LLSX tiến bộ với giai cấp thống trị bóc lột, đại biểu cho QHSX lỗi thời, nhưng đang thống trị XH. Do sự đối lập về địa vị và lợi ích giữa các giai cấp. Đấu tranh giai cấp xảy ra khi có mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX lỗi thời, từ đó thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Biểu hiện : Giai cấp cách mạng, tiến bộ với phương thức sản xuất mới mâu thuẫn với Giai cấp thống trị với quan hệ sản xuất lỗi thời và lạc hậu. Đấu tranh giai cấp lắng xuống là nhờ những cải cách tiến bộ nhất định ở một số nước và kết quả đấu tranh của các giai cấp CM của các nước trên thế giới. 2.2.6. Vai trò của đấu tranh giai cấp: Trong xã hội có giai cấp, những quan hệ sản xuất lỗi thời không tự động nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới. Chúng được giai cấp thống trị bảo vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế và tư tưởng, đặc biệt là bạo lực có tổ chức. Muốn thay đổi quan hệ sản xuất để giải phóng sức sản xuất phải gạt bỏ lực cản lớn lao ấy, điều đó chỉ có thể thực hiện được qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Mác và Angghen đã xem đấu tranh giai cấp như là đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế-xã hội, do đó “đấu tranh giai cấp” là động lực của lịch sử các xã hội có giai cấp. Đấu tranh giai cấp là một động lực thúc đẩy XH có giai cấp phát triển. Đấu tranh giai cấp là một động lực thúc đẩy XH phát triển (mâu thuẫn được giải quyết, XH mới ra đời thay XH cũ). Đấu tranh giai cấp dẫn đến đỉnh cao là CMXH, xóa bỏ QHSX cũ, CSKT cũ, KTTT cũ, thiết lập QHSX mới và dẫn đến sự thay đổi PTSX, thay đổi mọi mặt của XH. Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời góp phần cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Đấu tranh giai cấp vô sản nhằm thủ tiêu chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về TLSX chủ yếu. Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Trước khi giành chính quyền: nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản: đấu tranh kinh tế đấu tranh tư tưởng,đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền: thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển XH không chỉ trong thời kỳ CM XH, mà cả trong thời bình c ũng cần đến đấu tranh giai cấp. Do đó, giai cấp vô sản cần phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh . 2.3. Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, nhân loại 2.3.1. Quan hệ giai cấp và dân tộc: 2.3.1.1. Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc: Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ khăng khít hữu cơ với nhau, không thể tách rời nhau nhưng có vai trò lịch sử khác nhau và không thể thay thế nhau. Trong một dân tộc bao giờ cũng có nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau cùng chung sống. Lợi ích dân tộc là lợi ích chung của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội sống trong cộng đồng ấy. Trong mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, giai cấp nào có lợi ích gắn liền với PTSX thống trị sẽ trở thành lực lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc. Giai cấp và dân tộc sinh ra và mất đi không đồng thời: Giai cấp có trước dân tộc nhưng khi giai cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại. 2.3.1.2. Giai cấp tác động đến dân tộc: Quan hệ giai cấp với tư cách là sản phẩm trực tiếp của PTSX trong xã hội có giai cấp, là nhân tố có vai trò quyết định sự hình thành và xu hướng phát triển của dân tộc, quy định tính chất của mối quan hệ dân tộc. Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc. Hiện tượng dân tộc này thống trị, áp bức các dân tộc khác thực chất là giai cấp thống trị của dân tộc này áp bức dân tộc khác mà bộ phận bị áp bức nặng nề nhất là nhân dân lao động. Do vậy nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong giải phóng dân tộc. 2.3.1.3. Dân tộc tác động đến giai cấp: Áp bức dân tộc tác động trở lại áp bức giai cấp, nó nuôi dưỡng áp bức giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Do vậy, trong phong trào giải phóng giai cấp không được xem nhẹ vấn đề dân tộc. Khi mâu thuẫn dân tộc lên cao thì ngay trong bản thân dân tộc, mâu thuẫn giữa các giai cấp cũng lên cao. Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc không chỉ diễn ra theo một chiều mà còn có chiều ngược lại. Một dân tộc chưa có độc lập thống nhất thì giai cấp đại biểu cho PTSX mới muốn trở thành giai cấp thống trị phải tiên phong trong cách mạng giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ trước hết là phải thực hiện nhiệm vụ khôi phục, thống nhất dân tộc. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân về bản chất mang tính quốc tế, đoàn kết quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng ngưới lao động. Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công công nhân trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Trong các xã hội tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc thường không thống nhất với nhau. Trong các xã hội này, vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được giải quyết trên lập trường giai cấp nhất định. 2.3.2. Quan hệ giai cấp và nhân loại : Nhân  loại một mặt phân chia thành các giai cấp, tầng lớp có vai trò xã hội và lợi ích khác nhau; mặt khác phân chia thành các cộng đồng xã hội, các tộc người có trình độ khác nhau. Tuy nhiên nhân lọai vẫn là một thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất ấy là bản chất người của từng cá thề và của cả cộng đồng, bản chất đó quy định lợi ích chung và quy luật phát triển chung của cả cộng đồng. Do vậy tất cả các cá nhân, các dân tộc, các giai cấp không tồn tại và phát triển tách rời sự tồn tại và phát triển của cả cộng đồng nhân loại. Tất cả đều có lợi ích chung là bảo vệ và phát triển cuộc sống của cả loài người. Ngay nay những lợi ích chung như: Chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường, dân số, chống các loại dịch bệnh, chống đói nghèo … trở thành mục tiêu chung của toàn nhân loại.    Tuy nhiên, các giai cấp trong xã hội có giai cấp, do địa vị, lợi ích khác nhau, đã nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái giai cấp và cái toàn nhân lọai rất khác nhau. Lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại. Còn lợi ích của giai cấp phản động thì mâu thuẫn với lợi ích của dân tộc, nhân loại. Mục tiêu của cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nhân dân làm chủ, bảo đảm lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và phục vụ cho con người…Những lợi ích ấy thống nhất với lợi ích của toàn nhân loại. Trong khi khẳng định trong xã hội có giai cấp, tư tưởng xã hội có tính giai cấp, chủ nghĩa Mác – Lênin không phủ nhận những giá trị toàn nhân loại mang tính vĩnh cửu.   II. THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp, đấu tranh giai cấp và dân tộc: 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp: Trong quan niệm của Hồ Chí Minh “Giai cấp vô sản”; “Đạo quân vô sản”; “Giai cấp cần lao”; “Giai cấp công nhân” là những từ có cùng ý nghĩa. Trong giai đoạn kháng chiến, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng các giai cấp địa chủ- nông dân cùng hoà hoãn quyết tâm giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng luôn đứng về phía bình đẳng cho quyền lợi của giai cấp nông dân. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiền phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”. Khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta thuộc về giai cấp công nhân Việt Nam là một đóng góp quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn hết, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là một, “ ĐOÀN KẾT, ĐOÀN KẾT, ĐẠI ĐOÀN KẾT ” 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc: Hồ Chí Minh luôn luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giai quyết vấn đề dân tộc. Mọi đường lối, chính sách ở tất cảc các thời kỳ cách mạng, người luôn đứng trên quan điểm “ lấy dân làm gốc.” Độc lập dân tộc gắn liền với chủ quyền quốc gia, quyền bình đẳng, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh – là vấn đề dân tộc thuộc địa. “Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập”. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập. Người xác định con đường cách mạng Việt là kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Để phát huy mạnh mẽ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định “phải xác định những chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng đúng để phát huy mội lực lượng hùng mạnh vốn có và tạo nên những sức mạnh mới có khả năng đưa cách mạng đến thắng lợi.” Một trong những quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh là “ phát huy sức mạnh của nhân dân trong mọi công việc của sự nghiệp giữ nước và dựng nước.” 1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc: 1.3.1. Về con đường cứu nước và giải phóng dân tộc: C.Mác và Ph.Angghen, V.I Lênin đã khẳng định không có cái gọi là “dân tộc phi giai cấp”. Song theo Hồ Chí Minh “dân tộc” và “giai cấp” là hai phạm trù khác nhau và “giải phóng dân tộc” và “giải phóng giai cấp” cũng là những công việc khác nhau. Người cũng chỉ rõ, xét cho cùngcuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng thể hiện tính giai cấp rõ rệt. Đó là cuộc đấu tranh của đông đảo nhân dân lao động mà “công nông là gốc cách mệnh”, nhằm chống lại “cường quyền”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và độc lập dân tộc gắn liền với tư tưởng về cách mạng giẩi phóng dân tộc. Tư tưởng này được hình thành và phát triển trong quá trình Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước và đấu tranh chống thực dân đế quốc để giành độc lập cho nhân dân Việt Nam và góp phần vào công cuộc giẩi phóng thuộc địa. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của “cách mạng vô sản”. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải có đảng cách mện”, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cố” - đó là chủ nghĩa Lênin. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công-nông. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một, hai ngườ”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, trong đó “công-nông là người chủ cách mện”... “công-nông là gốc cách mệnh”. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân. 1.3.2. Về sự lãnh đạo của Đảng vô sản trong cách mạng giải phóng dân tộc: Hồ Chí Minh Khẳng định: “Đảng có vững cách mệnh mới thành côngcũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng một Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc là một vấn đề tất yếu của thời đại hợp vưói yêu cầu và điều kiện của các nước phương Đông và có nét riêng của một nước thuộc địa. 2. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay: 2.1. Cơ cấu xã hội-giai cấp ở nước ta : Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đọi ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh nhân . Liên minh công-nông-trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị -xã hội vững chắc cho chế độ mới. Giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội. Cơ cấu xã hội-giai cấp nước ta biến đổi theo xu hướng tiến bộ , được phản ánh ở sự thay đổi tích cực của các giai cấp tầng lớp xã hội. Trong suốt thời kì quá độ , liên minh công-nông-trí thức là lực lượng chính trị -xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Văn kiện Đại hội Đảng lần X đã nêu: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức , dưới sự lãnh đạo của Đảng , là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam 2.2. Tình hình của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay:   Đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam  diễn ra trong điều kiện mới. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp  chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đấu tranh giai cấp ở nước ta xuất phát từ :     Đấu tranh dưới hình thức cạnh tranh thi đua kinh tế.           Tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước.           Đấu tranh bằng quản lý nền kinh tế bằng pháp luật     Đấu tranh chủ yếu trên ba lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng.     Đấu tranh cảnh giác với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa – chệch hướng xã hội chủ nghĩa.    Đấu tranh trong quan hệ quốc tế: linh hoạt , mềm dẻo nhưng kiên định.     Nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Hệ thống XHCN đang bị thoái trào, CNTB đang tạm thời khắc phục những hạn chế và chiếm ưu thế trên các mặt : quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không còn trực diện như thời kì đáu tranh giải phóng dân tộc mà ẩn sau các cuộc đáu tranh về kinh tế, văn hoá , tư tưởng… Thời kì quá độ lên CNXH hiện nay mà nhất là xu thế toàn cầu hoá đã đặt nước ta trước nhiều nguy cơ và thử thách. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì (1-1999) đã xác định 4 nguy cơ đền nay vẫn còn tồn tại và có nhiều diễn biến hơn, đó là: tụt hậu về kinh tế, diễn biến hoà bình, nguy cơ chệch hướng XHCN, và nguy cơ nạn tham nhũng. Đấu tranh giai cấp diễn ra trong những điều kiện mới như sau: Nước ta đang ở trong thời kì quá đọ chứ chưa thật sự trên con đường XHCN. CNTB đang phát triển mạnh trên thế giới. Xu thế hội nhập khu vực và thế giới ngày càng gia tăng. Mối quan hệ giưa các giai cấp tầng lớp trong xã hội không còn như trước mà ngày nay chủ yếu là mối quan hệ hợp tác , đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiai cấp và vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay (2).DOC
Tài liệu liên quan