Tiểu luận Giải pháp cho các khu công nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường

MỤC LỤC

 

Trang

Lời mở đầu 0

I. Hiện trạng khu công nghiệp 1

II. Giải pháp 4

1. Hệ thống pháp lý 4

2. Tăng cường công cụ kinh tế 7

3. Tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp 10

4. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp 12

5. Hỗ trợ đầu tư xử lý môi trường 14

6. Công tác giáo dục và tuyên truyền 15

7. Kỹ thuật và công nghệ xử lý 17

8. Khu công nghiệp sinh thái 26

Lời kết 29

Tài liệu tham khảo 30

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 5202 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp cho các khu công nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường (trong các khu công nghiệp, khu chế xuất), thì trên cơ sở luật bảo vệ môi trường, cần sớm ban hành đồng bộ khung pháp ký về bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Thể chế hoá các chủ trương, chính sách, chế độ, quy định rõ các đầu mối trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giải quyết các vấn đề phát sinh về phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường. Sở KHCN&MT chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương về công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN, đồng thời chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ KHCN&MT về chuyên môn, nghiệp vụ, chính sách vĩ mô thực hiện nội dung công tác quản lý về bảo vệ môi trường KCN; Tổ chức việc xem xét cấp Phiếu xác nhận Bảng đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư vào KCN theo phân cấp thẩm định tại Nghị định 175 CP của Chính phủ và những quy định tại thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT của Bộ KHCN&MT; Giám sát việc thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường của Công ty phát triển hạ tầng KCN và các doanh nghiệp KCN trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và trong suốt giai đoạn hoạt động của KCN; Tiếp nhận và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường KCN trong phạm vi quyền hạn được giao hoặc chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền xử lý... Quy chế cũng đã khẳng định nếu Công ty phát triển hạ tầng KCN và các doanh nghiệp KCN vi phạm quy chế bảo vệ môi trường KCN sẽ bị xử phạt hành chính về bảo vệ môi trường theo Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt Nam. Công ty phát triển hạ tầng KCN, các doanh nghiệp KCN cố tình gây cản trở công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra môi trường sẽ bị lập biên bản trình lên UBND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương hoặc/và Bộ KHCN&MT để có quyết định xử lý. 2. Tăng cường công cụ kinh tế Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng những công cụ kinh tế khác nhau(các loại phí, giấy phép có thể bán được, hệ thống kỹ quỹ và hoàn trả, khuyến khích thực thi, các chính sách thuế môi trường và tài nguyên, quy định đền bù thiệt hại do ô nhiễm môi trường…)nhằm đem lại sự mềm dẻo, hiệu quả, chi phí – hiệu quả cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Phần lớn các công cụ này đã kích thích những người gây ô nhiễm có khả năng hoàn thành các mục tiêu môi trường bằng những phương tiện có hiệu quả, chi phí – hiệu quả nhất. Với những mức độ khác nhau, chúng sử dụng những nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” và “người hưởng lợi phải trả”. Theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả, thì ở mức ô nhiễm cao sẽ chịu phạt về tài chính cao hơn, còn ở mức ô nhiễm thấp hơn thì chịu phạt thấp hơn, hoặc thậm chí còn được thưởng nữa. Theo nguyên tắc người hưởng lợi phải trả thì người sử dụng phải trả toàn bộ chi phí xã hội cho sự cung cấp nguồn lực đó. Trong khi một số công cụ kinh tế ứng dụng các chi phí trực tiếp(ví dụ: phạt dựa trên khối lượng chất độc thải ra, hệ thống trả phí theo từng thứ chất thải rắn, phí cho phép thải khí tính theo khối lượng khí thải ra, tiền kí quĩ có thể được hoàn trả cho các bao bì), các công cụ khác lại sử dụng các chi phí gián tiếp như thuế đánh vào đầu ra(ví dụ: thuế nhiên liệu). Phương pháp kinh tế có một số ưu điểm sau: Khuyến khích sử dụng các biện pháp chi phí – hiệu quả để đạt được các mức độ ô nhiễm có thể chấp nhận được. Kích thích sự phát triển công nghệ và tri thức chuyên sâu về kiểm soát ô nhiễm, trong khu vực tư nhân. Cung cấp cho Chính phủ một nguồn thu nhập để hỗ trợ cho các chương trình kiểm soát ô nhiễm. Cung cấp tính linh động trong các công nghệ kiểm soát ô nhiễm. Loại bỏ được yêu cầu của Chính phủ về một lượng lớn thông tin chi tiết cần thiết để xác định mức độ kiểm soát khả thi và thích hợp đối với mỗi nhà máy và sản phẩm. Xác định mức mức phí môi trường tương ứng với lượng chất thải của các khu công nghiệp. Biện pháp này rất hiệu quả, nó sẽ khuyến khích các cơ sở sản xuất giảm ô nhiễm với chi phí thấp hơn, kích thích các cơ sở sản xuất đầu tư vào công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới. Tuy nhiên một trong những trở ngại lớn nhất là phản ứng của các doanh nghiệp. Áp dụng biện pháp kỹ quỹ - hoàn trả đối với những sản phẩm có nhiều khả năng gây ô nhiễm. Khi các doanh nghiệp sử dụng những sản phẩm ấy, trả bao bì và các phế thải của chúng cho một Trung tâm được phép để tái chế hoặc để thải bỏ, thì khoản tiền ký quỹ của họ sẽ được hoàn trả lại à biện pháp này tăng cường việc thu gom các chất thải nguy hại nhằm hạn chế khả năng gây ô nhiễm môi trường. Các khoản trợ cấp bao gồm các khoản tiền trợ cấp, các khoản vay với lãi suất thấp, khuyến khích về thuế, để khuyến khích những doanh nghiệp thay đổi hành vi, hoặc giảm bớt chi phí trong việc giảm ô nhiễm mà những người gây ô nhiễm phải chịu. Ví dụ: chính phủ trợ cấp cho công nghiệp chủ yếu để giúp tài trợ cho việc mua các thiết bị làm giảm ô nhiễm, hoặc để trợ cấp cho việc đào tạo cán bộ. Trong một số nước, người ta trợ cấp cho chính quyền địa phương tiến hành các chương trình nghiên cứu và triển khai công nghệ, hoặc để trợ giúp cho việc áp dụng những kỹ thuật mới mà luật pháp và các quy định yêu cầu. Trợ cấp cũng được áp dụng để kiểm soát ô nhiễm, tái chế để sử dụng lại và để khôi phục nguồn lực. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là công cụ kinh tế hiệu quả nhằm ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tăng cường phối hợp với các ngành, đặc biệt là: Sở Tài Chính, Ban quản lý các khu công nghiệp và Cục thuế tỉnh tổ chức giám định toàn bộ nước thải của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ngay sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường có thông tư hướng dẫn xác định lưu lượng nước thải công nghiệp và công bố các đơn vị có năng lực giám định mẫu nước thải phục vụ công tác thu phí để tăng nguồn thu cho ngân sách đầu tư xử lý môi trường và khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các công trình xử lý nước thải, nếu không phải bị nộp mức phí cao hơn rất nhiều. Hiện tượng trốn nộp phí bảo vệ môi trường (BVMT) đang rất phổ biến, dù đây là nguồn kinh phí chủ yếu dùng vào tái tạo, giữ gìn và BVMT. Các kiểu trốn phí, chưa tôn trọng BVMT vẫn còn bất cập Tuy việc thu phí BVMT tại Việt Nam còn phải chỉnh sửa, nhưng nếu thực hiện nghiêm các quy định hiện có cũng góp phần tích cực tái tạo, BVMT. Việc thu phí BVMT đang đạt rất thấp, nghiêm trọng nhất là việc thu phí đối với nước thải công nghiệp hiện chỉ đạt khoảng 20% tổng số phí phải thu, dù loại nước này đang là nguyên nhân chính làm chết các dòng sông Việt Nam. Thanh tra môi trường là một biện pháp thiết yếu trong quản lý môi trường theo phương cách pháp lý. Thanh tra môi trường là biện pháp cưỡng chế sự tuân thủ pháp luật, các quy định, hướng dẫn, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường đối với các khu công nghiệp nói riêng và các tổ chức, cơ quan, tập thể, cá nhân trong xã hội nói chung; đồng thời cũng là biện pháp bảo đảm quyền tự do, dân chủ cho mọi người khiếu nại, khiếu tố về mặt môi trường. 3. Tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp Hình thành một hệ thống tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp thống nhất, đồng bộ, phù hợp với hoạt động của khu công nghiệp, tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương. Nếu có hệ thống tổ chức quản lý môi trường phù hợp, khu công nghiệp sẽ giảm thiểu các nguy cơ gây ô nhiễm và tạo ra những lợi thế trong việc sử dụng những sản phẩm phụ hoặc chất thải, kết hợp các ngành nghề với nhau tạo thành hệ sinh thái công nghiệp. Bố trí cán bộ chuyên trách chăm lo bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, trong từng doanh nghiệp khu công nghiệp. Có một hệ thống quản lý theo ngành dọc thống nhất để có thể quản lý chặt chẽ hơn công tác bảo vệ môi trường ở từng cơ sở, trong và ngoài khu công nghiệp. Phân bố lại địa bàn sản xuất công nghiệp theo hướng tập trung hoá và quy hoạch hợp lý hơn. Đối với các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Biên Hoà, Cần Thơ... việc hình thành các khu công nghiệp ngoài động lực phát triển sản xuất còn mang một ý nghĩa lớn trong công cuộc chỉnh trang đô thị thông qua việc di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp ra khỏi các khu dân cư để làm sạch môi trường sống, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và hạn chế những thiệt hại do sự cố công nghiệp đã từng xảy ra nhiều nơi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Bảo vệ môi trường KCN là các hoạt động nhằm giữ cho môi trường bên trong và xung quanh KCN được trong sạch, cải thiện môi trường, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do các hoạt động của KCN gây ra cho môi trường. Việc tổ chức quản lý và hoạt động bảo vệ môi trường KCN phải tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam bao gồm từ lúc xét duyệt dự án đến giai đoạn thi công xây dựng và trong suốt quá trình hoạt của KCN. Tuân theo các quy chế như KCN chỉ chính thức đi vào hoạt động khi có đủ các điều kiện đảm bảo môi trường như: Có quy hoạch chi tiết phân khu cụm công nghiệp; Có hệ thống cấp điện, nước đảm bảo cho nhu cầu sử dụng theo từng giai đoạn phát triển; Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thoát nước mưa và thoát nước thải riêng biệt; Có trạm xử lý nước thải tập trung đảm bảo đạt tiêu chuẩn xử lý xả thải vào nguồn tiếp nhận tương ứng; Có địa điểm và phương tiện cần thiết sẵn sàng cho việc trung chuyển và/hoặc lưu trữ tạm thời chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại với điều kiện đảm bảo hợp vệ sinh và an toàn cho môi trường... Bộ KHCN&MT có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đối với các KCN trên lãnh thổ Việt Nam; tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường của các KCN. Bộ KHCN&MT giao cho Cục Môi trường trực tiếp quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN với các nội dung như: Tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM của các dự án đầu tư xây dựng KCN; Thẩm định các dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung, trạm trung chuyển, lưu giữ và bãi chôn lấp chất thải nguy hại của KCN; Đề xuất việc điều chỉnh tiêu chuẩn thải cho phép với các KCN; Tổ chức chỉ đạo xây dựng báo cáo thường niên về hiện trạng môi trường KCN Việt Nam; Chỉ đạo, tổ chức các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, thanh tra môi trường KCN, giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác bảo vệ môi trường KCN và ra quyết định xử phạt các trường hợp vi phạm quy chế bảo vệ môi trường trong phạm vi thẩm quyền; Làm đầu mối quản lý, cung cấp thông tin hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ xử lý và quản lý môi trường KCN; Phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KCN trong phạm vi cả nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường... 4. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp Để giải quyết vấn đề môi trường của các khu công nghiệp, điều quan trọng là đòi hỏi các doanh nghiệp phải hiểu được các quy định của pháp luật về môi trường, quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường. Do đó, trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường thường xuyên phối hợp với Ban quản lý các khu công nghiệp và các ngành, các đơn vị có liên quan tổ chức các lớp tập huấn phổ biến các quy định của pháp luật về môi trường, đặc biệt là các văn bản dưới luật để thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Đồng thời, sẽ phối hợp với các cơ quan khoa học tổ chức nghiên cứu và chuyển giao các công nghệ xử lý chất thải cho các doanh nghiệp. Vấn đề môi trường sẽ không được giải quyết nghiêm túc nếu chỉ kêu gọi tinh thần trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và các hình thức xử phạt (dĩ nhiên là phải có, và phải rất nghiêm ngặt). Doanh nghiệp phải tự họ tìm ra cách bảo vệ môi trường mà vẫn có lợi; và xã hội cũng phải tạo điều kiện cho họ có lợi trong việc bảo vệ môi trường Trước hết, phải nói đến ý thức của nhiều chủ doanh nghiệp và chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN. Các chủ doanh nghiệp khi đầu tư vào KCN thì chỉ chú trọng các hạng mục đầu tư cho sản xuất, còn hạng mục xử lý chất thải nói chung và xử lý nước thải riêng thì thường bị gác lại. Thậm chí không ít nhà máy đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhưng lại không vận hành hoặc vận hành rất hạn chế để giảm chi phí sản xuất. Còn các chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN thì chỉ bắt đầu xây dựng nhà máy xử lý nước thải trung tâm khi đã lấp đầy 50 – 70% diện tích đất công nghiệp, mà lẽ ra phải thực hiện ngày từ đầu cùng với các công trình giao thông, cấp nước, thoát nước… Nhưng nguyên nhân chính phải kể đến là do ngại tốn kém trong đầu tư. Để có một nhà máy xử lý nước thải công suất 3.000 m3/ngày như KCN Tân Thuận phải tốn tới 5 triệu USD. Đã vậy, ở các KCN chậm thu hút đầu tư, nước thải từ các nhà máy trong khu còn quá thấp so với công suất thiết kế của nhà máy xử lý nước thải, dẫn đến vận hành tốn kém mà chậm thu hồi vốn Để khắc phục được tình trạng bức xúc này vừa qua, một cuộc toạ đàm được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh với sự tham gia của các nhà khoa học, địa diện các cơ quan quản ý nước và một số doanh nghiệp, đã nêu nhiều giải pháp khắc phục. Theo đó, phải chú trọng gắn quy hoạch công nghiệp với quy hoạch môi trường và phải tính cho cả vùng chứ không chỉ nhìn riêng rẽ từng tỉnh, thành phố. Phải xác định những ngành công nghiệp có thể đặt ở thượng lưu nguồn nước và những ngành công nghiệp nào phải đặt ở hạ lưu, những ngành công nghiệp nào phải dứt khoát bố trí xa nguồn nước. Khi quy hoạch các KCN cần mới các nhà khoa học, chuyên gia tham gia ngay từ đầu và nhất thiết phải đưa ra được phương án tối ưu xử lý chất thải, nước thải. Chậm nhất là khi trong KCN có 30% các nhà máy đi vào hoạt động thì phải có nhà máy xử lý nước thải trung tâm của khu. Sau khi nhà máy được cấp phép, các cơ quan chức năng cần giám sát, đôn đốc việc triển khai xây dựng hệ thống xử lý chất thải, nước thải nội bộ nhằm hoàn thành đồng bộ với các hạng mục khác. Các tỉnh và thành phố sẽ hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các doanh nghiệp và các chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN thông qua các lớp huấn luyện về môi trường, cử các chuyên gia tư vấn, đặc biệt là Quỹ giảm thiểu ô nhiễm môi trường của địa phương sẵn sàng cho vay không lãi với điều kiện vay đơn giản. Cần hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về môi trường, tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng của cán bộ, chức năng, quyền hạn của bộ máy, tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành chức năng với chính quyền các địa phương, sao cho hoạt động bảo vệ môi trường có hiệu quả thiết thực.       Trên thực tế, nhiều chủ đầu tư KCN, doanh nghiệp đang có xu hướng coi nhẹ công tác bảo vệ môi trường, đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của toàn xã hội. Do vậy, nếu chỉ kêu gọi chủ đầu tư KCN và doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải một cách chung chung mà không có chế tài buộc phải tuân theo các chuẩn mực tối thiểu trong việc bảo vệ môi trường thì họ sẽ tìm cách trì hoãn hoặc làm ăn gian dối như tình trạng đã diễn ra tại công ty Vedan hay công ty Giấy Mỹ xuân Sài gòn 5. Hỗ trợ đầu tư xử lý môi trường ình trạng ô nhiễm môi trường tại một số khu công nghiệp đến nay chưa được giải quyết do tồn tại nhiều nguyên nhân, trong đó có khó khăn về vốn để đầu tư các công trình xử lý. Do đó, để hỗ trợ một phần vốn cho các doanh nghiệp xử lý chất thải, trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với Ban quản lý các khu công nghiệp xác định nguyên nhân gây ô nhiễm tại một số doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp có nhận thức về trách nhiệm trong xử lý chất thải nhưng khó khăn về vốn, Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ kiến nghị Quỹ bảo vệ môi trường Quốc gia cho vay ưu đãi hoặc đề nghị Quỹ bảo vệ môi trường của tỉnh hỗ trợ hoặc vay ưu đãi, tuy nhiên nguồn vốn Quỹ bảo vệ môi trường của tỉnh còn hạn chế nên chỉ ưu tiên một số doanh nghiệp cho vay ưu đãi theo điều lệ của Quỹ. Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường xuyên từ ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư bảo vệ môi trường; tăng tỉ lệ đầu tư cho môi trường trong nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện việc thu phí, ký quỹ bảo vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động môi trường. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu trong thời gian tới, dự báo kịp thời các diễn biến của biến đổi khí hậu, lồng ghép các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về môi trường 6. Công tác giáo dục và tuyên truyền Nâng cao nhận thức cộng đồng là một đòi hỏi khách quan từ thực tế để có thể quản lý tốt hơn hoạt động bảo vệ môi trường tại các KCN ( cũng như ở nhiều lĩnh vực khác về bảo vệ môi trường). Biện pháp này giúp huy động nguồn lực to lớn trong cộng đồng cùng góp phần quản lý bảo vệ môi trường KCN, nhất là các khu vực dân cư xung quan các KCN-đối tượng chịu tác động môi trường từ các KCN. Do vậy, cần tăng cường nhiều hơn nữa việc hỗ trợ, chia sẻ công khai thông tin bảo vệ môi trường các KCN tạo điều kiện thông tin cho việc giám sát, phản biện xã hội ở lĩnh vực này. Giáo dục, từ “thuở lên ba”, để con người xã hội từ trong xương tủy đã có khái niệm biết quý và tôn trọng môi trường; Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bảo vệ môi trường qua những chính sách thuế, tín dụng ưu đãi…, để doanh nghiệp có thể sống “đàng hoàng” với xã hội mà không phải quá so đo về mặt lợi nhuận; Tích cực hỗ trợ, quảng bá những kỹ thuật, công nghệ có thể giúp doanh nghiệp sinh lời trong đầu tư bảo vệ môi trường. Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước; những bài học và kinh nghiệm về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của các nước trong khu vực và trên thế giới; công bố công khai những tổ chức, doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và hình thức xử lý. Đưa nội dung giáo dục môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân. Coi trọng việc phát động phong trào bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân. Xây dựng tiêu chí về môi trường vào đánh giá hoạt động của từng doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, gia đình, làng, bản, khu phố, tập thể, cá nhân, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Phát hiện, nhân rộng và tuyên truyền các mô hình, điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường. Duy trì và phát triển giải thưởng môi trường hàng năm. Cần đẩy mạnh công tác tổ chức tuyên truyền phổ biến pháp luật, chủ trương, chính sách và kế hoạch bảo vệ môi trường của Nhà nước, đi đôi với việc giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường của cán bộ, công nhân, người lao động tại các đơn vị, DN trong KCN. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc bảo vệ môi trường; các đơn vị, DN đăng ký hoạt động trong KCN cần đáp ứng và thực hiện đầy đủ các yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định chung của KCN. Đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Xây dựng và phát triển lực lượng tình nguyện viên bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Phát triển các dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước. Hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực để giải quyết các vấn đề môi trường liên quốc gia. Tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế và khu vực vì môi trường; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, chương trình, dự án song phương và đa phương về bảo vệ môi trường phù hợp với lợi ích quốc gia. Nâng cao vị thế của ước ta trên các diễn đàn khu vực và toàn cầu về môi trường. Tranh thủ tối đa nguồn hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ các nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân cho công tác bảo vệ môi trường. Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, các tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương quán triệt và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị theo phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của mình. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Trung ương Đảng, cá bộ, ngành có liên quan hướng dẫn thực hiện, thường xuyên kiểm tra, định kỳ báo cáo Ban Bí thư kết quả thực hiện Chỉ thị này 7. Kỹ thuật – công nghệ Về mặt kỹ thuật-công nghệ, một số vấn đề cần được quan tâm hỗ trợ, đẩy mạnh ứng dụng để góp phần bảo vệ môi trường các KCN. Trong đó, cần phân định các nhóm doanh nghiệp trong các KCN nên ưu tiên chọn lựa thực hiện các giải pháp trọng tâm như: hoặc, (nhóm A) cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất; hoặc (Nhóm B) xử lý chất thải cuối đường ống; hoặc (nhóm C) kiểm soát mức phát thải, thu hồi và tái chế chất thải,… hoặc cần áp dụng đồng thời tất cả các giải pháp nêu trên một cách tổng hợp (nhóm D). Quan tâm đến vấn đề xử lý nước thải tại các KCN - đây là khâu trọng yếu, vì nước thải công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, nhất là gây nhiễm bẩn nguồn nước, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của nhân dân khu vực liền kề. Cần xây dựng hệ thống nhà máy xử lý nước thải tập trung, hiện đại với thiết kế kỹ thuật đạt tiêu chuẩn được cấp thẩm quyền phê duyệt; đảm bảo xử lý toàn bộ lượng nước thải của KCN ở giai đoạn hoạt động ổn định. Bên cạnh đó, cần xây dựng mạng lưới thoát nước mưa riêng biệt với nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt và nước thải từ các bộ phận dịch vụ khác. Toàn bộ nước thải trong mạng lưới thoát nước của KCN phải được dẫn vào trạm xử lý nước thải tập trung của KCN, để được xử lý đạt tiêu chuẩn quy định trước khi thải vào nguồn tiếp nhận ra bên ngoài KCN. Nghiêm cấm và có biện pháp xử lý thích đáng đối với mọi hành vi xử lý nước thải bằng biện pháp để thấm vào đất hoặc pha loãng nước thải để thải ra ngoài KCN. Đối với vấn đề xử lý chất thải rắn công nghiệp, phải đảm bảo vệ sinh và an toàn tuyệt đối cho môi trường; nhất thiết phải quy hoạch địa điểm và các phương tiện cần thiết sẵn sàng cho việc trung chuyển và lưu trữ hoặc lưu trữ tạm thời chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại với những điều kiện đảm bảo tối ưu. Việc thu gom, vận chuyển và xử lý đối với toàn bộ chất thải rắn thải ra từ các cơ sở thành viên trong KCN phải đảm bảo an toàn về mặt môi trường cho KCN. Cần nghiêm cấm và có biện pháp xử lý thích đáng đối với những hành vi chôn, lấp chất thải rắn trên mặt bằng các đơn vị, DN hoạt động trong KCN hoặc thải ra ngoài KCN không đúng quy định. Thực hiện các điều kiện và biện pháp kiểm soát, xử lý cục bộ các chất gây ô nhiễm không khí, gây tiếng ồn, rung do các đơn vị, DN trong KCN gây ra trong quá trình hoạt động; đảm bảo đạt tiêu chuẩn theo quy định, không gây ảnh hưởng đến sinh hoạt, nghỉ ngơi của nhân dân khu vực liền kề bên ngoài KCN. Cần chú ý đến sự cố môi trường có thể xảy ra bất thường ở KCN. Để sẵn sàng cho việc ứng cứu kịp thời các sự cố môi trường có thể xảy ra tại KCN, cần thiết phải trang bị hệ thống ứng cứu sự cố môi trường cả về phương tiện lẫn nhân sự cho toàn KCN. Cần đảm bảo diện tích cần thiết cho việc thiết kế hệ thống cây xanh, thảm cỏ tương ứng với không gian trong KCN, tạo sự hài hòa, gần gũi với môi trường thiên nhiên. Xây dựng hệ thống cung cấp nước đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của toàn KCN trong mỗi giai đoạn phát triển; trường hợp có nhu cầu khai thác nước ngầm hoặc nguồn nước tại chỗ trong KCN để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt, cần lập phương án khai thác hợp lý, đảm bảo sự điều tiết của nguồn nước ngầm và được ngành chức năng đồng ý. Cần có một mạng lưới quan trắc hiệu quả đối với các KCN cần được các cơ quan chức năng ở cấp địa phương và trung ương thống nhất tổ chức thực hiện, khai thác và chia sẻ sử dụng kết quả quan trắc. Môt số công nghệ & phương pháp xử lý Xử lý nước thải bằng cây sậy (hệ thống Reedbed) Nước thải được xử lý the

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp cho các khu công nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.doc