Tiểu luận Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu

MỤC LỤC

Phần I: Lời mở đầu.1

Phần II: Phần nội dung.2

A/ Khái niệm xuất khẩu.2

B/ Vai trò của nghành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu .2

C/ Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ở một số ngành cụ thể .4

1. Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ngành nông sản .4

2. Giải pháp đẩu mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ở ngành dệt may.7

3. Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu ở ngành da giầy.11

KẾT LUẬN .14

TÀI LIỆU THAM KHẢO.15

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kim ngạch xuất khẩu hàng năm đem về cho đất nước một lượng ngoại tệ không nhỏ đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước. Chúng ta luôn tự hào rằng nước ta có rất nhiều mặt hàng xuất khẩu như: gạo, cà phê, hạt tiêu, xuất khẩu ra thị trường thế giới với kim ngạch ngày một lớn, chất lượng được thế giới chấp nhận. Có thể nói rằng, đây là kết quả của sự cố gắng không mệt mỏi của các nhà xản xuất, các nhà kinh doanh và sự chỉ đạo đúng đắn của Nhà nước. Phần II: Nội dung A/ Khái niệm xuất khẩu : Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ sang một quốc gia khác, được thực hiện qua biên giới của quốc gia bằng nhiều con đường như: đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không, trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện so sánh. Hoạt động xuất khẩu là một hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, nó đã xuất hiện từ rất sớm do hoạt động sản xuất phát triển. Điều này có ý nghĩa là khi hoạt động sản xuất trong nước phát triển lượng hàng hoá dư thừa. Để tiêu thụ số hàng này các nước phải mở rộng thị trường sang các nước khác. Vì vậy hoạt động xuất khẩu xuất hiện. Hiện nay hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế và nó hướng vào mục tiêu cuối cùng là đem lại lợi ích co các quốc gia cùng tham gia xuất khẩu. B/ Vai trò của ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu: Ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu nước ta đã trở thành một ngành kinh tế có đóng góp vô cùng quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Song cũng như các ngành kinh tế khác ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu phải chịu sự lãnh đạo về đường lối, chủ trương của Đảng thông qua các văn kiện chính sách của Đảng. Các văn kiện của Đảng có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định các phương hướng và mục tiêu phát triển của ngành. Tuy nó thường không đề ra các mục tiêu và giải pháp cụ thể cho từng ngành kinh tế nhưng các chủ trương, nguyên tắc của nó lại là một căn cứ lý luận và định hướng trung hạn và dài hạn cho sự phát triển của ngành. Do vậy để phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu một cách đúng đắn, chúng ta nhất thiết phải nhận thức được các chủ trương, đường lối của Đảng. Về cơ bản chính sách ngoại thương hiện nay của chúng ta đang thực hiện là chính sách hướng ngoại tổng hợp, tức là tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất sản phẩm xuất khẩu đồng thời khuyến khích sản xuất các sản phẩm để thoả mãn nhu cầu trong nước và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo nguồn tích luỹ cho đất nước. Đại hội VIII của Đảng tháng 6 năm 1996 là một mốc quan trọng đánh dấu 10 năm của chặng đường đổi mới. Trong văn kiện đã nêu: "Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước..." Như vậy hoạt động xuất khẩu được coi là yếu tố quyết định của hoạt động ngoại thương, là nhân tố quan trọng trong kinh tế đối ngoại. Nội dung chính sách xuất khẩu của nước ta bao gồm những điểm sau đây: - Một là: đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu hàng hoá cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Thông qua nhập khẩu tranh thủ các thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước. - Hai là: phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất khẩu, đa doanh nghiệp hoá các mặt hàng xuất khẩu, đa phương hoá thị trường xuất khẩu. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, thu hẹp chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu. - Ba là: khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất sản phẩm hướng về xuất khẩu. - Bốn là: xoá bỏ bao cấp và bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải hoạt động có hiệu quả, đồng thời phải thực hiện trách nhiệm xã hội do pháp luật quy định. Khi phục vụ lợi ích chung, trường hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ thích đáng. - Năm là: cơ cấu xuất khẩu và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phải phù hợp với điều kiện thị trường cạnh tranh. Đây là yếu tố quyết định để tăng kim ngạch xuất khẩu vừa tăng nhanh xuất khẩu, vừa chú trọng mở rộng các dịch vụ thu ngoại tệ tăng tỷ trọng các sản phẩm có chứa hàm lượng kỹ thuật cao và sản phẩm chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô là những phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. - Sáu là: cơ cấu mặt hàng phải theo hướng đa dạng hoá, phát huy tiềm năng của nền nông nghiệp nhiệt đới, phát huy được các lợi thế về lao động, con người, tạo ra những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao nhờ tính độc đáo và giá thành thấp. C/ Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ở một số ngành cụ thể : 1. Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ngành nông sản. 1.1. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế đối với các nông sản xuất khẩu. Do quy mô thị trường quốc tế lớn hơn rất nhiều so với thị trường trong nước, mặt khác thị trường nông sản quốc tế lại thường xuyên biến động phức tạp nên các doanh nghiệp sản xuất và điều kiện nông sản xuất khẩu thường gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu thị trường. ở Việt Nam, các doanh nghiệp nắm bắt thông tin thị trường còn rất kèm, thông tin thiếu và độ chuẩn xác không cao. Vì vậy nhiều khi doanh nghiệp bị động, lúng túng trong điều hành xuất khẩu nông sản. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh nông sản xuất khẩu, nhà nước thành lập các trung tâm xúc tiến xuất khẩu nông sản ở Việt Nam. Chức năng của trung tâm này là nắm bắt và cung cấp thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức xúc tiến xuất khẩu và đưa hàng ra nước ngoài một cách thuận lợi và tiết kiện chi phí. Việc tập trung nghiên cứu thị trường nước ngoài là hướng hoạt động của trung tâm. Và về lâu dài sẽ thiết lập một ngân hàng dữ liệu về thị trường nước ngoài để sẵn sàng cung cấp cho các doanh nghiệp khi họ cần đến. Các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài cần có các nhóm công tác nghiên cứu thị trường và báo cáo chi tiết về thị trường. Chúng ta đặt nhiệm vụ này lên vị trí quan trọng trong ngoại giao. 1.2. Có chính sách trợ giúp các doanh nghiệp sản xuất và chế biến nông sản để tạo ra hàng hóa nông sản xuất khẩu có chất lượng cao, chi phí thấp làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản của Việt Nam trên thị trường thế giới. Thứ nhất: Chúng ta có thể thí điểm: - Điều chỉnh lãi xuất tín dụng cho nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản trong đó theo hướng thoả mãn tối đa nhu cầu tín dụng và lãi xuất điều chỉnh theo mùa vụ và kiểm soát tín dụng. - Điều chỉnh các nguồn cung ứng đầu vào đảm bảo cho các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ không bị thua lỗ, có thể đấu thầu chọn nhà cung ứng với chi phí dịch vụ với giá thấp, thuận lợi bảo hành các vật tư chủ yếu. Đầu ra nông sản cũng theo hướng chọn các nhà tiêu thụ nông sản xuất khẩu. - Cuối cùng Nhà nước điều chỉnh thuế cho tất cả các doanh nghiệp và hộ nông dân trực tiếp đầu tư sản xuất tiêu thụ nông sản. Sự phối hợp này sẽ mang lại hiệu quả cần đánh giá sau 1 năm trở lên về các mục tiêu lựa chọn trong đó chú trọng mục tiêu kim ngạch xuất khẩu và giá trị gia tăng. Thứ hai: Mỗi ngành, địa phương và cả nước chọn ra các lĩnh vực ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trước hết cần đổi mới giống cây trong thích ứng với vùng sinh thái, chấp nhận cạnh tranh xuất khẩu, tìm ra giống cây trồng mang đặc điểm riêng để chiếm thị trường. Tiếp đến là đổi mới hệ thống dịch vụ theo hướng chia sẻ lợi ích với người sử dụng dịch vụ. Đầu tư hạ tầng có kế hoạch liên tục từng hạn mục coi trọng huy động vốn tại chỗ, vốn của nhân dân, doanh nghiệp trên địa bàn. 1.3. Chính sách hỗ trợ công nghiệp chế biến và kiểm soát chất lượng nôn sản xuất khẩu. Để cho các nông sản hàng hóa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng trong quá trình chế biến, nhà nước cần thiết phải hỗ trợ công nghệ chế biến nông sản cho các cơ sở chế biến, các doanh nghiệp chế biến thông qua chương trình giới thiệu rộng rãi, các tài liệu và trình diễn các công nghệ chế biến nông sản mới, hỗ trợ doanh nghiệp trong chuyển giao công nghệ, hỗ trợ nghiên cứu cải tiến công nghệ áp dụng và có các chính sách khuyến khích nâng cao công nghệ chế biến qua thuế tín dụng, khấu hao... Nhà nước cần hỗ trợ việc đào tạo và hướng dẫn hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản xuất khẩu để người sản xuất và chế biến hiểu được các yêu cầu chất lượng để đầu tư đúng hướng và tăng cường quản lý chất lượng đồng bộ đối với các nông sản xuất khẩu. 1.4. Sớm thành lập và đưa vào hoạt động quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu để trong mọi trường hợp đều có thể tiêu thụ hết nông sản hàng hóa. 1.5. Cải tiến cơ chế quản lý xuất khẩu. Nên tập trung vào các vấn đề sau: - Xoá bỏ cơ chế xin - cho trong hạn ngạch xuất khẩu nông sản đối với các nông sản quản lý bằng hạn ngạch. - Đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu nông sản. - Xoá bỏ việc đánh thuế hàng nông sản xuất khẩu. - Tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế trực tiếp tham gia xuất khẩu nông sản. Việt Nam nằm trong khu vực sản xuất nông sản nhiệt đới chịu sức ép cạnh tranh của nhiều quốc gia. Trong xu thế hội nhập chung sáng tạo cần tiếp thu kinh nghiệm của những nước có mặt hàng giống nhau, đổi mới toàn diện sản xuất, chế biến tiêu dùng và xuất khẩu nông sản vào các thị trường, có chiến lược tiếp thị. Gắn mục tiêu XKNS trong chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 2. Giải pháp đẩu mạnh phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu ở ngành dệt may Đứng trước những thách thức to lớn, để đạt mục tiêu phát triển toàn ngành từ nay đến 2020, ngành dệt may nước ta cần thực hiện nhiều giải pháp quan trọng cụ thể là: 2.1. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu Để các doanh nghiệp dệt may giữ vững thị trường truyền thống đồng thời xâm nhập thị trường mới cần chú trọng các biện pháp cụ thể sau: Nhà nước hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Ngoài phòng thương mại công nghiệp Việt Nam, cần phải thành lập một Trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, về khách hàng một các kịp thời ; khảo sát thực tế thị trường. Các doanh nghiệp cần xâm nhập vào thị trường mới và củng cố thị trường hiện có. Đối với thị trường trong nước, cần xây dựng mạng lưới tiêu thụ và các siêu thị hàng dệt may, tham gia hội trợ triển lãm. Thiết lập quy chế mở chi nhánh ở nước ngoài đóng góp các khoản phí. Khẩn trương chuẩn bị tham gia hệ thống "Thông tin ngành dệt may khu vực Châu á - Thái Bình Dương" của 7 nước trong khu vực Châu á để tiết kiệm tối đa chi phí thời gian, tiền của trong công tác nghiên cứu thị trường. 2.2. Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư Để đạt mục tiêu từ nay đến năm 2010, ngành dệt may sản xuất 2 tỷ mét vải các loại và xuất khẩu 4 tỷ USD, cần đầu tự mạnh mẽ để huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước. Công ty tài chính dệt may cần phát huy vai trò bằng cách thay mặt cho tập đoàn các doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn sau đó hỗ trợ các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các doanh nghiệp dệt may, cần phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá thủ tục hành chính, đầu tư vào những mặt hàng trọng điểm, ổn định và bền vững về chất lượng cũng như thị trường. 2.3. Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công hàng xuất khẩu để giải quyết việc làm, từng bước khắc phục điều kiện sản xuất lạc hậu. Để nâng cao hiệu quả hoạt động gia công, các doanh nghiệp dệt may cần mở rộng gia công mặt hàng mới sang thị trường mới. Tránh tập trung gia công vào mọi mặt hàng, mọt thị trường dễ dẫn đến bị ép giá, lệ thuộc. Trong hoạt động gia công, phía Việt Nam cần thoả thuận, để giành quyền tự cung cấp nguyên liệu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để từng bước khách hàng làm quen với sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quá trình gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp đồng thời phải chuẩn bị cho xuất khẩu trực tiếp học hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất kinh doanh của đối tác. Giảm tỷ trọng xuất khẩu gián tiếp qua nước thứ ba là một biệt pháp quan trọng để nâng cao hiệu qảu xuất khẩu hàng dết may. Muốn vậy, cả doanh nghiệp trong nước phải tự mình nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm. Đồng thời thực hiện tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu thương mại của hàng hoá. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển ngành tạo mốt Việt Nam bằng việc hỗ trợ cho các nhân tài trong ngành ra ngoài du học. 2.4. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Yêu cầu đầu tiên để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Cụ thể là: Không ngừng ứng dụng các thiết bị khoa học mới, hiện đại hoá cho ngành dệt may để từng bước nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, giữ chữ tín khách hàng. Kiểm tra chất lượng nguyên phụ liệu đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên liệu ổn định, đúng thời hạn và đảm bảo chất lượng. Tuân thủ yêu cầu nghiêm ngặt các yêu cầu đặt hàng về nguyên liệu, quá trình sản xuất tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình kiểm tra chất lượng hàng trước khi xuất khẩu qua hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc. Đảm bảo yêu cầu gia hàng bằng cách đơn giản hoá thủ tục xuất khẩu, chủ động vận chuyển bốc xếp hàng hoá. Hiện nay hàng hoá dệt may của Việt Nam tại thị trường Mỹ được đánh giá cao là các doanh nghiệp của ta giao hàng đúng thời hạn. Nhà nước có thể hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp bằng cách kéo dài thời hạn hoàn vốn để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh bằng giá. 2.5. Hoàng thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu: Để thực hiện giải pháp này, trước hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên liệu, hàng mẫu, bản vẽ. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ thuế quan hợp lý, chính sách thưởng đại lý, tổ chức đào tạo cho các đại lý, cần có chế độ trợ cấp giá thoả đáng cho các doanh nghiệp vào thị trường Mỹ. Cơ chế phân bổ hạn ngạch phải được thay đổi căn bản theo hướng sử dụng hạn ngạch làm công cụ thúc đẩy phải được thay đổi căn bản theo hướng sử dụng hạn ngạch làm công cụ thúc đẩy doanh nghiệp tiến ra thị trường không hạn ngạch. Việc phân bổ hạn ngạch bình quân như hiện nay sẽ dẫn tới một số doanh nghiệp thừa hạn ngạch, trong khi đó một số doanh nghiệp khác lại thiếu hạn ngạch nên có hiện tượng mua bán hạnh ngạch giữa các doanh nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến cân đối thị trường. Từ năm 1999, đấu thầu một phần hạn ngạch hàng dệt may đã được thí điểm nhưng đây chưa phải là giải pháp tốt nhất trong gia đoạn hiện nay vì nếu đấu thầu hạn ngạch, sẽ có hiện tượng "thoả thuận ngầm" của một số doanh nghiệp lớn trong cả nước để thắng thầu và giữ toàn bộ hạn ngạch của cả nước. Đương nhiên các doanh nghiệp nhỏ hơn sẽ lâm vào tình trạng bế tắc. Để khắc phục hiện tượng này, trong gia đoạn hiện nay nên áp dụng phổ biến hơn nữa cơ chế phân bổ hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu vào thị trường không hạn ngạch của doanh nghiệp. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc cấp hạn ngạch cũng cần chú ý ưu tiên đối với các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước. Hạn ngạch dệt may năm 2000 không tăng nhiều so với năm 1999 nhưng quy chế phân bổ hạn ngạch có 4 thay đổi lớn nhằm khuyến khích xuất khẩu cụ thể: Tỷ lệ ký hạn ngạch công nghiệp, giao quyền phân bổ cho UBND Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, thực hiện đấu thầu trong cả nước và phí hạn ngạch được tính bằng VNĐ. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ truyền thống gặp nhiều khó khăn, Nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích doanh nghiệp tăng tỷ lệ xuất khẩu. Hơn nữa, Nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thị trường hoàn toàn mới như thị trường Trung Đông như cấp tín dụng dài hạn, lãi xuất thấp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu quy chế tín dụng xuất khẩu và thị trường Mỹ, chế độ ưu đãi phổ cập (102 - 103) để khai thác mua sắm nguyên liệu. Trong chiến lược phát triển ngoại thương của nước ta từ nay đến năm 2010, hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo vì nó rất phù hợp với điều kiện lao động sản xuất của Việt Nam. Bước sang những năm đầu của thế kỷ mới, Việt Nam sẽ thực hiện hàng loạt các cam kết quốc tế và khu vực về hội nhập mà vấn đề ảnh hưởng trự tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu là cắt giảm thuế quan. Để đối phó với sự cạnh tranh bình đẳng và khốc liệt hơn rất nhiều khi chúng ta là hội viên chính thức của các tổ chức quốc tế, Nhà nước Việt Nam cùng với ngành dệt may phải thực hiện một cách nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các chính sách biện pháp về quản lý và sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. 3. Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu ở ngành da giầy: Kể từ năm 1999 cần tạo một bước đệm từ 2 đến 3 năm để khắc phục những tồn tại, yếu kém thiếu kinh nghiệm đầu tư trước đây. Trong đó, việc cấp bách nhất là hoàn trả vốn đầu tư (đã tồn đọng nhiều năm nay, lãi mẹ đẻ lại lãi con khá lớn). Bên cạnh đó là các tồn đọng do nhiều năm thua lỗ trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế vừa qua. Có như vậy mới phục hổi sản xuất, tiếp tục vươn lên chặn đứng mối đe doạ vỡ nợ, phá sản ở một số ít doanh nghiệp. Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển ngành da giầy đến năm 2010. Từng đơn vị xây dựng cho mình chiến lược phát triển trong chiến lược chung của toàn ngành. Trong đó cần xác định rõ phương hướng và mục tiêu phát triển, thị trường tiêu thụ, giải pháp các bước đi cụ thể cho từng giai đoạn; đổi mới tổ chức, phương thức quản lý; tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, chuyên gia kỹ thuật trên cơ sở đó, tạo thế phát triển mạnh và vững chắc cho từng doanh nghiệp và cho toàn ngành trong tổng thể, tạo cho ngành da - giầy Việt Nam có một vị trí xứng đáng trên thị trường trong nước và trên thế giới. Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong những năm trước mắt là tìm kiếm thị trường giầy và đồ da trong khu vực và trên thế giới, nắm bắt quy luật vận động của thị trường để điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nhịp độ phát triển các mặt hàng. Coi trọng đầu tư phát triển ngành hàng theo hướng xuất khẩu. Phát triển sản xuất nguyên liệu, phụ kiện, phụ tùng trong nước, giảm nhập khẩu tạo thêm việc làm, tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm của ngàh trên thị trường thế giới. Trước mắt, để tiếp sức cho ngành giầy da cần phải phát triển sản xuất các loại nguyên phụ liệu sau: + Về thuộc da: phối phợp với các ngành chăn nuôi và công nghiệp thực phẩm để sớm hình thành nghề chăn nuôi bò thịt và bò sữa ở vùng sinh thái thích hợp, đầu tư kỹ thuật giết mổ, lột da và bảo quản da hiện đại để sau năm 2005 có nguồn nguyên liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế cung cấp cho ngành thuộc da trong nước cả về chất lượng, số lượng và giá cả, thay thế da thuộc nhập khẩu. Da thuộc là sơ chính của ngành da. Các mặt hàng từ da phần lớn là các mặt hàng sang trọng, đắt tiền, phản ánh mức độ tiêu dùng của một quốc gia. Công nghiệp thuộc da của Việt Nam đang phải tìm phương hướng và quy hoạch để thoát khỏi tình trạng yếu kém cả về số lượng, chất lượng, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ quản trị kinh doanh, thị trường tiêu thụ... Bước đầu cần tranh thủ mọi nguồn vốn ưu đãi, sự bảo hộ của Nhà nước để quy hoạch lại ngành, sớm ổn định lại sản xuất, đổi mới công nghệ chống ô nhiễm môi trường. Trước mắt từ năm 1999 đến năm 2004 cố gắng đáp ứng một phần nhu cầu da trong nước thay thế da nhập khẩu tiến tới hoàn thiện ngành thuộc da vào năm 2010. + Các loại vật liệu khác da cho sản xuất mũ giầy, túi, cặp. + Các loại vật liệu làm đế giầy. + Các loại khuôn mẫu, phụ tùng phế liệu. + Việc đẩy mạnh sản xuất nguyên liệu trong nước cho ngành da giầy sẽ mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Tích cực kêu gọi vốn đầu tư từ tất cả các nguồn vốn: vốn tự có, tự vay tự trả tín dung, vốn của dân thông qua cổ phần và phát hành cổ phiếu, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tranh thủ sự hỗ trợ của nhà nước về vốn dưới mọi hình thức vì đây là một trong những ngành sản xuất hàng tiêu dùng quan trọng cần được Nhà nước quan tâm. Xác định đúng vai trò của khoa học công nghệ trong công nghệ da giầy. Vừa qua, do chủ yếu làm gia công nên doanh nghiệp có phần chưa chú trọng đến việc chế biến vươn lên làm chủ khoa học công nghệ. Thực hiện các giải pháp nhanh, mạnh hơn nữa để phát triển nguồn nhân lực có trình độ, có trách nhiệm cao để đi tới cơ cấu kinh tế tối ưu. Đây cũng là một trong bốn nội dung chủ đạo của chiến lượng công nghiệp hoá theo quan điểm mới trong hai thập niên tới của Đảng và Nhà nước. Chuẩn bị đầy đủ điều kiện để đáp ứng tiến trình hoà nhập khu vực, tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu do vậy các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư chiều sâu tiếp nhận công nghệ tiên tiến, củng cố khâu quản lý tăng năng suất lao động, thực hành tiết kiệm vật tư giữ chữ tín với khách hàng đặc biệt sớm áp dụng hệ thống quản lý chất lượng năng suất theo tiêu chuẩn quốc tế. Chủ động tạo vốn từ nhiều nguồn vốn tự có vốn Nhà nước, vốn vay ngân hàng, vốn huy động căn bộ công nhân viên, thuế mua thiết bị trả chậm. Giám đốc doanh nghiệp quyết định trong khâu này. Tạo cơ sở nguyên liệu vững chắc đặc biệt là nguyên liệu động, thực vật do các ngành nông lâm, ngư nghiệp khai thác hoặc sản xuất ra phân chia lợi ích hợp lý sòng phẳng giữa người cung cấp nguyên liệu với doanh nghiệp chế biến trên cơ sở các hợp đồng dài hạn. Chú trọng công tác tiếp thị quan hệ mật thiết với khách hàng. Nghiên cứu nhu cầu thị hiếu khách hàng nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nhất là thị trường quốc tế. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh về kế toán, kiểm toán, thực hiện chế độ tài chính công khai chống lãng phí, tham ô. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý có kiến thức và năng lực kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Kết luận Phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu trên cơ sở tận dụng nguồn lực sẵn có và đầu tư đổi mới một cách hợp lý nhằm nâng cao giá trị sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Nâng dần tỷ trọng hàng hoá qua chế biến đặc biệt là chế biến sâu trong cơ cấu hàng xuất khẩu từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trên cơ sở đó chúng ta cần xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu một cách hợp lý, thiết lập mối quan hệ cân đối giữa các khâu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng của công nghiệp chế biến biểu hiện gắn phát triển nông - lâm ngư nghiệp với công nghiệp chế biến nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta "phải phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế biến có khả năng cạnh tranh cao, đặc biệt công nghiệp hàng xuất khẩu". Một lần nữa mong nhận được những ý kiến góp ý của các thầy cô và các bạn đối với bài báo cáo này. Em xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo 1. Phạm Thính - Hoàng Thịnh Lâm - Trọng Hổ: Chế biến hàng xuất khẩu thực trạng và bài học kinh nghiệm (Tạp chí thương mại số 8/1997) 2. ThS Trần Hoè: Tăng trưởng theo con đường thúc đẩy xuất khẩu có bảo hộ của nền kinh tế (Tạp chí kinh tế phát triển số 36/2000) 3. PTS Hoà Hữu Lân: Kinh tế Inđônêxia thực tế và thách thức (Viện kinh tế Thế Giới Hà Nội 1999) 4. PTS Đào Lê Minh - Trần Lan hương: kinh tế Malaixia (Viện kinh tế Thế giới Hà Nội 1999) 5. Trần Quốc Khánh - Phạm Lưu Hưng - Nguyễn Trung Khoa: Các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu (Viện kinh tế Thế giới Hà Nội tháng 2/2001) 6. Phạm Quang Hàm: Phát triển công nghiệp hướng mạnh về xuất khẩu ở Việt Nam (Tap chí kinh tế dự báo số 6/1999) 7. ThS Ngô Thị Tuyết Mai: xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam thực trạng và những vấn đề cấp bách (Tạp chí kinh tế phát triển số 37/2001) 8. Lê Đăng Hà: Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, hướng đi đúng của ngành cao su (Tạp chí Công nghiệp số 7/2001) 9. TS Nguyễn Đình Long: Công nghiệp chế biến động lực nâng cao vị thê, giá trị cà phe Việt Nam (Tạp chí thương mại số 7/2001) 10. Bùi Xuân Lưu: kinh tế ngoại thương (NXB Giáo dục - 1997) 11. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ĐCSVN (NXB Chính trị Quốc Gia - Hà Nội 1996) Mục lục Phần I: Lời mở đầu.......................................................................................1 Phần II: Phần nội dung................................................................................2 A/ Khái niệm xuất khẩu.....................................................................2 B/ Vai trò của nghành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu .............

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61500.DOC
Tài liệu liên quan