MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ
NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNGTRUNG ƯƠNG 3
1.1. Khái niệm về chính sách quản lý ngoại hối 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. Mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối 3
1.1.3. Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối 4
1.2. Chính sách quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam 5
1.2.1. Nội dung quy định trong Luật NHNN Việt Nam 5
1.2.2. Nội dung các quy định trong các văn bản dưới Luật 5
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý ngoại hối và bài học rút ra cho
Việt Nam 7
1.3.1. Kinh nghiệm của Malaysia 7
1.3.2. Kinh nghiệm của Philipine 9
1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc 10
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 12
2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý ngoại
hối tại Việt Nam 12
2.1.1. Trước khi Luật NHNN ra đời 12
2.1.2. Sau khi Luật NHNN Việt Nam ra đời 14
2.2. Chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong thời gian qua 15
2.2.1. Chính sách tỷ giá 15
2.2.2. Chính sách dự trữ bắt buộc 16
2.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vãng lai 17
2.2.4. Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vốn 20
2.3. Đánh giá hoạt động của chính sách quản lý ngoại hối 22
2.3.1. Những kết quả đạt được 22
2.3.2. Những tồn tại trong chính sách quản lý ngoại hối 24
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI TẠI
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 28
3.1. Giải pháp đổi mới chính sách quản lý ngoại hối 28
3.1.1. Nhóm biện pháp tăng cường hiệu quả của chính sách quản lý
ngoại hối góp phần hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ
Việt Nam 28
3.1.2. Nhóm biện pháp tăng cường hiệu quả của chính sách quản lý
ngoại hối trong các giao dịch vốn 30
3.1.3. Trong lĩnh vực đầu tư gián tiếp và đầu tư ra nước ngoài 31
3.1.4. Về chính sách quản lý tỷ giá và phát triển thị trường liên
Ngân hàng 31
3.1.5. Trong tập trung và phát triển dự trữ ngoại hối 32
3.2. Một số kiến nghị 33
3.2.1. Đối với Chính phủ 33
3.2.2. Đối với NHNN 33
3.2.3. Đối với các TCTD 35
KẾT LUẬN 36
Danh mục tài liệu tham khảo 37
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách quản lý ngoại hối tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghị định 58/NĐ-CP của Chính phủ năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý cho phép các doanh nghiệp được ký kết vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả. Ngoài ra, để nới lỏng chính sách vay trả nợ nước ngoài, đáp ứng yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế, Nghị định số 90 ban hành năm 1998 đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động vay trả nợ nước ngoài theo hướng phân định trách nhiệm quản lý rõ ràng cho các cơ quan quản lý Nhà nước.
Về các khoản vay vốn nước ngoài ngắn hạn, trước năm 1997 chưa được NHNN chú trọng. Từ năm 1997, Thống đốc NHNN đã quan tâm hơn đến vấn đề này và ban hành quyết định số 207/QĐ-NH7 kèm theo quy chế mở L/C trả chậm, trong đó đưa ra các quy định chặt chẽ đối với các Ngân hàng mở L/C và các doanh nghiệp khi thực hiện nghiệp vụ này.
Ngoài ra còn có rất nhiều các văn bản khác có liên quan.
2.1.2. Sau khi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời
Luật NHNN Việt Nam và Luật các TCTD được Quốc hội khóa X nước CHXHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thức 2 ngày 12/12/1997, có hiệu lực thi hành ngày 1/10/1998 là một bước phát triển quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng. Đặc biệt, khi vai trò của công tác quản lý ngoại hối ngày càng trở nên thân thiết trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ - ngân hàng, Luật NHNN là một khung pháp lý nền tảng, tạo cơ sở thuận lợi cho công tác soạn thảo và ban hành các văn bản dưới Luật về lĩnh vực quản lý ngoại hối, nhằm mục đích xây dựng nên một hệ thống văn bản pháp quy thống nhất, thuận tiện và có hiệu quả đối với công tác quản lý và thực thi trong lĩnh vực này. Một số văn bản pháp quy dưới Luật như:
+ Nghị định số 63/1998/NĐCP ngày 17-8-1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
+ Thông tư số 01/1999/TT/NHNN7 ngày 16/4/1999 của NHNN hướng dẫn thi hành Nghị định 63/1998/NĐCP.
+ Nghị định số 90/1998/NĐCP ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban hành về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài.
+ Nghị định số 86/1999/NĐCP ngày 19/12/1999 về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước.
+ Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN ngày 25/5/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm.
+ Quyết định số 980/2001/QĐ-NHNN ngày 1/8/2001 của Thống đốc NHNN về việc quy định về chi phí khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp.
+ Quyết định số 1233/2001/QĐ-NHNN ngày 26/9/2001 của Thống đốc NHNN về sửa đổi điều 15 quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành theo quyết định số 711/2001/ QĐ-NHNN ngày 25/5/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm.
+ Quyết định số 1432/2001/QĐ-NHNN ngày 16/1/2001 của thống đốc NHNN về việc bổ sung sửa đổi một số nội dung tại thông tư số 03/1999/TT NHNN7 ngày 12/8/1999 hướng dẫn việc vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp.
+ Quyết định số 1437/2001/QĐ-NHNN ngày 19/11/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy định về mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài của người cư trú và người không cư trú.
+ Quyết định số 653/2001/ QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế tổ chức thực hiện nhiệm vụ về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Trên cơ sở các văn bản này, thị trường ngoại hối trong nước, hoạt động của các cá nhân tổ chức và các Ngân hàng đã từng bước được quản lý một cách khoa học, phát triển phù hợp với thực tế khách quan và định hướng của Đảng và Nhà nước. Hệ thống các văn bản về quản lý ngoại hối nêu trên đã góp phần không nhỏ vào những thành công của Ngành và hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn vừa qua.
2.2. chính sách quản lý ngoại hối của Việt nam trong thời gian qua
2.2.1. Chính sách tỷ giá
Từ chế độ đa tỷ giá cố định trước những năm 90, đến năm 91 NHNN đã từng bước chuyển đổi sang chế độ một tỷ giá thống nhất. Khi cần thiết, tỷ giá chính thức do NHNN công bố được điều chỉnh thích hợp để gắn với cung cầu ngoại tệ thực tế của nền kinh tế, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ ổn định và kiềm chế được mức lạm phát ở mức cho phép vào đầu những năm 90. Tuy nhiên, trước cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực và do một loạt các nước phá giá đồng tiền, NHNN liên tục điều chỉnh tăng tỷ giá chính thức và nới lỏng biên độ giao động tỷ giá áp dụng đối với NHTM từ 5%-10% trong giai đoạn 1997-1999. Đặc biệt từ tháng 2-1999, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức mà công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. Các Ngân hàng được xác định tỷ giá mua - bán so với USD trong phạm vi 0,1%. Đây là bước cải cách có ý nghĩa vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định chủ quan sang cơ chế tỷ giá xác định trên cơ sở cung cầu trên thị trường.
Tuy nhiên, khi mới thực hiện cơ chế này, NHNN đã quy định quá chi tiết các mức biên độ và biên độ lại quá hẹp, được coi là quan thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các NHTM. Do vậy, NHNN đã dần dần chỉnh sửa cơ chế này theo hướng nới rộng hơn và ít kỳ hạn chi tiết hơn như sau:
+ Giai đoạn từ 26/2/1999 đến 30/8/2001, NHNN quy định tới 12 kỳ hạn khác nhau: không kỳ hạn, kỳ hạn 30 ngày, từ 31 đến 44 ngày...với biên độ tương ứng từ 0,1% đến 3,5%.
+ Giai đoạn từ 1/9/2000 đến 17/9/2001, NHNN vẫn quy định 12 kỳ hạn với mức biên độ bình quân giảm 1/2 so với năm trước.
+ Giai đoạn từ 18/9/2001 đến 30/6/2002, NHNN chỉ còn quy định 4 kỳ hạn: không kỳ hạn, kỳ hạn 30 ngày, kỳ hạn từ 31 đến 104 ngày, kỳ hạn 105 đến 179 ngày; với các mức biên độ được nới rộng gần gấp 2 lần so với trước.
+ Giai đoạn từ 1/7/2002 đến nay, NHNN quy định 5 kỳ hạn, với các mức biên độ tiếp tục được nới rộng từ 1,10% lên 0,25% đối với nghiệp vụ giao ngay; từ 0,40% lên 0,50% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn 30 ngày; từ 2,35% lên 2,5% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn trên 90 ngày...
Việc điều chỉnh tăng này đã đáp ứng được yêu cầu của các TCTD cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các Ngân hàng, không bị gò bó trong khuân khổ chật hẹp như trước đây.Ngoài ra nó còn góp phần tạo điều kiện cho các NHTM chủ động hơn trong việc xác định tỷ giá của mình trên cơ sở tình hình cung cầu ngoại tệ, góp phần thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển và tạo điều kiện cho các NHTM hội nhập kinh tế thế giới theo nguyên tắc cạnh tranh và bình đẳng.
2.2.2. Chính sách dự trữ bắt buộc
Một công cụ khác của chính sách tiền tệ tác động trực tiếp đến chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá đó là dự trữ bắt buộc. Trong hơn 2 năm qua, NHNN đã điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng nâng cao mức dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ và hạ mức dự trữ bắt buộc đối với VND. Việc điều chỉnh này có tác động tích cực đến tình hình đô la hóa, lãi suất ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ của các NHTM. Sau đây là biểu đồ thể hiện sự tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt đối với tiền gửi ngoại tệ buộc thời kỳ 2001-2002:
Từ biểu đồ ta có thể nhận thấy rằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có xu hướng tăng rồi lại giảm chứng tỏ NHNN đã có những biện pháp điều chỉnh nó cho phù hợp với tình hình thực tế trên thị trường. Từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 8/2003 tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 4%, tiền từ 12 tháng đến 24 tháng là 1%. Đồng thời NHNN cũng điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với VND từ 5% xuống 3%, riêng NHNo&PTNT Việt Nam từ 3% xuống 2%. Từ kỳ dự trữ bắt buộc 12/2003 các tỷ lệ lần lượt tương ứng là 2% và 1,5%.
Việc điều chỉnh này đã có tác động hỗ trợ rất lớn trong điều hành lãi suất và tỷ giá thời gian qua, giúp cho lãi suất nội tệ diễn ra theo hướng có lợi hơn lãi suất đô la Mỹ, hạn chế được phần nào hiện tượng đô la hóa và ngăn ngừa rủi ro tỷ giá của các NHTM.
2.2.3. Chính sách quản lý hối đối với giao dịch vãng lai
2.2.3.1. Chính sách kiều hối
Trước năm 1980, Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích kiều hối chuyển về. Tuy nhiên, chính sách kiều hối giai đoạn này mang tính chất của nền kinh tế tập trung nên chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn. Cụ thể: ở thời kì này, chính sách kiều hối quy định không cho người thụ hưởng được phép giữ ngoại tệ và phải bán cho ngân hàng Ngoại thương với tỷ giá cao (tỷ giá thưởng) đồng thời chỉ được gửi về dưới 6 loại ngoại tệ chính là FRF, FR Thuỵ Sỹ, DM, Bảng Anh, HK dola, USD.
Từ năm 1982 trở đi, chính sách kiều hối đã nới lỏng hơn trước, mở rộng thêm 3 loại ngoại tệ khác song vẫn hạn chế khối lượng rút tiền từng lần và hạn chế loại tiền gửi cho đến cuối năm 1987.
Từ năm 1988, với chủ trương làm bạn với tất cả các nước, chính sách kiều hối đã tỏ ra thông thoáng hơn, cho phép chấp nhận tất cả các loại ngoại tệ và được phép gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, xoá bỏ qui định hạn mức rút tiền từng lần. Từ năm 1990, người nhập cảnh được mang ngoại tệ vào không hạn chế sau khi khai báo hải quan.
Năm 1995, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ, NHNN ban hành QĐ số 48 để khuyến khích kiều hối gửi về nước. Theo đó, kiều hối chuyển về không hạn chế về số lượng, số lần gửi và ngoại tệ gửi. Người thụ hưởng nhận bằng VND theo tỷ giá của ngân hàng, không nhận ngoại tệ tiền mặt nhưng được phép gửi ngoại tệ tiết kiệm tại ngân hàng và rút ra bằng ngoại tệ và phải chịu thuế thu nhập không thường xuyên. Song do tỷ giá chuyển đổi thấp hơn tỷ giá thị trường tự do nên người thụ hưởng thường rút tiền trước hạn để bán trên thị trường tự do, đồng thời do phải chịu thuế thu nhập nên tuy lượng kiều hối chuyển về có cao hơn giai đoạn trước nhưng vẫn thấp hơn so với tiềm năng. Có thể thấy rõ điều này qua bảng sau:
Bảng 1: Chuyển tiền kiều hối và tiền gửi ngoại tệ của dân cư
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Chỉ tiêu
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
FCD của dân cư
0.6
0.98
1.36
2.94
6.91
16.0
21.7
43.2
54
67.8
Chuyển tiền kiều hối qui VND
1.51
2.7
3.1
5.2
4.8
12.9
16.72
24.87
26.32
34.3
Thay đổi FCD của dân cư
0.38
0.38
1.58
3.97
9.09
5.7
21.5
10.8
13.8
Ngoại tệ ước tính còn trong lưu thông
2.32
2.72
3.62
0.83
3.81
11.02
3.37
15.52
20.5
Nguồn: NHNN
Năm 1999, để phù hợp với Nghị định số 63 về quản lý ngoại hối và khắc phục những nhược điểm của chính sách kiều hối nói trên, QĐ 170 của Chính phủ và Thông tư 02 của NHNN được ban hành. Chính sách kiều hối thời kì này thực sự thông thoáng hơn giai đoạn trước (cho phép nhận bằng ngoại tệ tiền mặt, không kết hối số ngoại tệ chuyển về, không phải chịu thuế thu nhập, phí qui định rõ ràng...) đã làm cho lượng kiều hối tăng lên đáng kể.
Như vậy, rõ ràng là chính sách kiều hối ngày càng thông thoáng đã tạo điều kiện thu hút được ngày càng nhiều lượng kiều hối. Điều này được thể hiện rõ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Lượng kiều hối giai đoạn 1998 - 6/2003
Nguồn: NHNN
Như vậy, nhờ những thay đổi trong chính sách kiều hối, lượng kiều hối trong vòng 5 năm đã tăng hơn gấp đôi, từ 950 triệu USD năm 1998 lên đến 2.2 tỷ USD vào năm 2002 và đạt 1.1 tỷ USD chỉ trong 6 tháng đầu năm 2003.
2.2.3.2. Chính sách kết hối
Tháng 9/1998, Chính phủ ban hành QĐ 173 và NHNN ban hành thông tư 08 hướng dẫn chế độ kết hối. Theo các văn bản này, người cư trú là tổ chức kinh tế trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được Chính phủ cân đối ngoại tệ , phải bán 80% nguồn thu vãng lai cho Ngân hàng, các tổ chức phi kinh tế phải bán 100% ngoại tệ từ nguồn thu vãng lai cho Ngân hàng trong vòng 15 ngày, các nguồn thu ngoại tệ không phải là nguồn thu vãng lai thì không phải bán. Đến cuối năm 1998, để tránh tình trạng các doanh nghiệp tìm cách lách, biến nguồn thu vãng lai thành nguồn thu khác để tránh chế độ kết hối, số ngày phải bán ngoại tệ kề từ khi có nguồn thu giảm xuống còn 3 ngày. Chính sách này đã làm giảm đáng kể việc găm giữ ngoại tệ của các tổ chức trên tài khoản, làm giảm sức ép lên tỷ giá và cung cầu ngoại tệ trên thị trường đã giảm bớt căng thẳng vào đầu năm 1999.
Để thực hiện chủ trương hội nhập nền kinh tế thế giới, với xu hướng tự do hóa cán cân vãng lai, chính sách kết hối - một công cụ hành chính bắt buộc chỉ nên áp dụng tạm thời đã có nhiều thay đổi. Cụ thể, tỷ lệ kết hối giảm dần từ mức 80% đối với các tổ chức kinh tế năm 1998 xuống còn 50% năm 1999, 40% năm 2001, 30% năm 2002 và 0% năm 2003. Sự thay đổi trong chính sách kết hối còn thể hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Quy định này áp dụng với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi các doanh nghiệp này được quyền mua bán ngoại tệ tại hệ thống Ngân hàng khi có nhu cầu mà trước đây các doanh nghiệp này không phải thực hiện chế độ kết hối khi phải tự cân đối thu chi ngoại tệ, không được mua ngoại tệ tại Ngân hàng. Chính sách kết hối giảm xuống còn 0% đánh dấu bước đi tiến tới hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam thông qua việc tự do hóa cán cân vãng lai của Việt Nam theo tiêu chuẩn của IMF.
2.2.4. Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vốn
2.2.4.1. Chính sách vay trả nợ nước ngoài
Trước năm 1990, với chính sách đóng cửa nền kinh tế, nợ nước ngoài chủ yếu hình thành từ khu vực công. Hiệu quả sử dụng vốn vay chưa được tính toán và coi trọng. Thời kì này, Việt Nam chưa có chiến lược và chính sách quản lý nợ nước ngoài phù hợp.
Đến năm 1991, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Chính phủ đã thực hiện hàng loạt các biện pháp xử lý nợ cũ như xin xoá nợ, hoãn nợ, đảo nợ cũng như sử dụng một phần ngân sách để chi trả. Do đó, nợ Chính phủ qua CLB Paris và nợ các NHTM qua CLB London đã giảm 50%, nợ MIB đã giảm khoảng 65%.
Từ năm 1998 đến nay, hầu hết các doanh nghiệp đều được phép vay vốn ở nước ngoài nhưng phải tự đảm bảo khả năng trả nợ, NHNN không can thiệp. Khi được vay vốn nước ngoài, các doanh nghiệp được phép mở tài khoản trong nước để tiếp nhận vốn vay và trả nợ. Các trường hợp muốn mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài để tiếp nhận vốn vay và trả nợ đều phải được sự đồng ý của NHNN.
Thông qua một loạt cải cách trong chính sách vay trả nợ nước ngoài nhằm chuyển hướng từ điều hành trực tiếp sang gián tiếp, tạo cơ sở cho việc tự do hoá cán cân vốn, NHNN đã từng bước nắm bắt được nhu cầu vay vốn nước ngoài của doanh nghiệp và nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp hàng năm, từ đó giúp cho công tác điều hành CSTT và tỷ giá được đồng bộ, trôi chảy, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài.
2.2.4.2. Chính sách quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Trước đây, các doanh nghiệp FDI phải tự cân đối ngoại tệ trong kế hoạch thu chi ngoại tệ của mình và không được phép mua ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là để tiêu thụ hàng hoá. Do đó, vào cuối những năm 1990, khi tình hình khan hiếm ngoại tệ đã bớt căng thẳng, Việt Nam đã xoá bỏ qui định này và cho phép các doanh nghiệp FDI được quyền mua ngoại tệ tại các NHTM khi có nhu cầu thanh toán với nước ngoài.
Trong giai đoạn trước, các doanh nghiệp FDI phải tuân thủ nguyên tắc vốn vay nước ngoài không được làm tăng tổng vốn đầu tư nhưng hiện nay quy định này đã được nới lỏng. NHNN đã có văn bản hướng dẫn vốn vay trong tổng vốn đầu tư là số dư vay nợ trong nước và nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể vay mới trả cũ để lựa chọn phương án vay vốn với chi phí rẻ nhất. Nhờ thay đổi trong chính sách quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài và một loạt các giải pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư nước ngoài đầu những năm 2000 đã được cải thiện đáng kể.
Đối với chính sách đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài, hiện nay, Việt Nam cũng đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào các trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam với một tỷ lệ tối đa nhất định.
Đối với chính sách đầu tư ra nước ngoài, do Việt Nam vẫn còn thiếu vốn cho hoạt động trong nước nên hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn nhiều hạn chế. Cho đến nay, chưa có một văn bản pháp quy nào quy định rõ điều kiện được đầu tư ra nước ngoài song những doanh nghiệp được cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài sẽ được mua ngoại tệ tại hệ thống NHTM và chuyển vốn ra nước ngoài.
2.3. Đánh giá hoạt động của chính sách quản lý ngoại hối
2.3.1. Những kết quả đạt được
Một là, chính sách quản lý ngoại hối được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều hành. Đối chiếu lại lịch sử hình thành và phát triển các chính sách về quản lý ngoại hối của Việt Nam, có thể cho rằng có 3 Nghị định là nền tảng hệ thống chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam qua các thời kì. Đó là Nghị định số 102/CP ban hành điều lệ quản lý ngoại hối năm 1963, Nghị định số 161 ban hành năm 1988 và hiện nay là Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối ban hành năm 1998. Rõ ràng là các nghị định được thay đổi theo hướng ngày càng thông thoáng hơn và ngày càng có nhiều nội dung thích ứng với tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Điều này thể hiện sự thay đổi lớn trong tư duy cũng như trong quản lý ngoại hối của Chính phủ.
Hai là, hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối ngày càng được hoàn thiện và phát huy tác dụng.
Ba là, các công cụ của chính sách quản lý ngoại hối được sử dụng tương đối hiệu quả. Trong thời gian qua, NHNN đã có nhiều nỗ lực trong việc sử dụng các công cụ quản lý ngoại hối như: thay đổi tỷ lệ kết hối của các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, thay đổi mức ngoại tệ được phép chuyển ra nước ngoài... Việc thay đổi trên đã có tác động tích cực đối với chu chuyển tiền tệ, chu chuyển vốn trong nền kinh tế, giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng tài chính khu vực và đạt mức độ tăng trưởng khá trong những năm vừa qua.
Bốn là, có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách quản lý ngoại hối với các bộ phận khác của CSTT. Trong thời gian qua, NHNN đã nhiều lần thay đổi tỷ giá kết hợp với điều chỉnh lãi suất VND và USD theo hướng phù hợp với biến động của thị trường tiền tệ quốc tế đồng thời phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kì. Mặt khác, để hạn chế tốc độ đôla hoá trong nền kinh tế và ngăn ngừa rủi ro tỷ giá của các NHTM, NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng nâng cao đối với USD và giảm đối với VND.
Năm là, cơ chế điều hành tỷ giá được thay đổi căn bản. Cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước đã dần dần thay cho cơ chế tỷ giá cố định, đa tỷ giá. Việc tỷ giá được đánh giá khách quan hơn đã phần nào phản ánh đúng giá trị thực của đồng tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, làm thay đổi cơ bản tâm lý của thị trường. Lòng tin của công chúng vào chính sách kinh tế nói chung và CSTT, chính sách quản lý ngoại hối nói riêng ngày càng gia tăng.
Sáu là, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bước đầu hình thành và phát triển.
Bảy là, chính sách quản lý ngoại hối góp phần thu hút nhiều nguồn vốn nước ngoài. Sự thông thoáng trong chính sách quản lý ngoại hối cũng như chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài là những nhân tố hết sức quan trọng giúp các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam, nhờ đó đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Tám là, tạo điều kiện phát triển ngoại thương, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Việc thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết đã buộc các đơn vị xuất nhập khẩu phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong kinh doanh, nắm bắt nhanh tín hiệu thị trường, kịp thời điều chỉnh cơ cấu mặt hàng, tiết kiệm chi phí... từ đó góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm bớt nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại.
Chín là, dự trữ ngoại hối không ngừng tăng lên qua các năm và cơ cấu dự trữ ngày càng hợp lý
2.3.2.Những tồn tại trong chính sách quản lý ngoại hối
Những kết quả đã đạt được nhờ việc sửa đổi và ban hành mới các văn bản liên quan đến quản lý ngoại hối trong thời gian qua là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng có những mặt trái mà chúng ta cần phát hiện kịp thời và đưa ra các biện pháp xử lý triệt để để tránh những hậu quả về sau. Nguyên nhân của tình trạng này là do có quá nhiều quyết định, chỉ thị, quy chế, thông tư của các cơ quan khác nhau ban hành do vậy hiện tượng chồng chéo, không đồng bộ, không nhất quán đã gây khó khăn trong công tác quản lý ngoại hối đồng thời có tác động ảnh hưởng tới quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, ảnh hưởng tới việc quản lý và điều hành chính sách tiền tệ của NHTW. Điều này được thể hiện rõ trên thực tế như sau:
2.3.2.1. Tồn tại trong các văn bản dưới Luật
Các văn bản về quản lý ngoại hối dưới Luật ở Việt Nam tồn tại với số lượng nhiều. Mặc dù để phù hợp với tình hình thực tế, nhiều văn bản khác nhau đã ra đời nhưng các văn bản này vẫn còn thể hiện nhiều điều bất cập:
Một là, trong chính sách lãi suất. Thời kỳ 1994-1996, tỷ giá (VND/USD) là ổn định song mức chênh lệch lãi suất giữa VND và USD lớn, hậu quả tất yếu của nó là hầu hết các NHTM chuyển nguồn vốn ngoại tệ sang nội tệ để kinh doanh. Tình trạng ngoại hối của nhiều Ngân hàng trong thời kỳ này ở trạng thái đoản (short position). Sang giữa năm 1997, các NHTM đồng loạt thu vét ngoại tệ trên thị trường để cân bằng trạng thái ngoại hối. Thực trạng này đã đẩy sự mất cân đối tiền tệ trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng hơn. Ngược lại, trong giai đoạn cuối 1999-2000, tỷ giá (VND/USD) luôn có xu hướng tăng đều nhưng các NHTM lại duy trì mức chênh lệch lãi giữa USD và VND nhỏ. Điều này làm tăng hiện tượng đô la hóa nền kinh tế và lãng phí nguồn ngoại tệ.
Hai là, việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chưa thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Mặc dù trong tất cả các văn bản của NHNN nói chung và quy chế quản lý ngoại hối nói riêng đều yêu cầu đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trong thực tế, các doanh nghiệp quốc doanh vẫn nhận được nhiều ưu ái trong việc tiếp cận với các nguồn nước ngoài, bảo lãnh nhập hàng, thanh toán quốc tế, ngoại hối...Các doanh nghiệp tư nhân, cổ phần vẫn còn bị phân biệt đối xử trong tư duy của các cấp chủ quản. Như vậy, có thể nói, một sân chơi thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mới được thực hiện ở một vài nơi, vài cấp mà vấn đề quản lý ngoại hối là một điển hình.
Ba là, có sự không đồng bộ trong các văn bản về đối tượng quản lý ngoại hối. Trong Nghị định số 90 về quản lý vai trả nợ nước ngoài, trong đó quy định đối tượng quản lý là doanh nghiệp. Tuy nhiên theo Nghị định 63 về quản lý ngoại hối thì đối tượng là người cư trú. Như vậy là phạm vi đối tượng đã rộng hơn rất nhiều so với Nghị định 63 gây khó khăn cho công tác quản lý, điều hành.
Bốn là, theo Quyết định số 72/1999 ngày 9/7/1999 của Bộ Tài Chính ban hành về Quy chế lập và sử dụng qũy tích lũy trả nợ nước ngoài, quy định chênh lệch của qũy được cho vay, được mua các trái phiếu ngoại tệ của các NHTM, hoạt động này ảnh hưởng tới thị trường ngoại tệ, tới mức cung ứng tiền của NHTW và do vậy nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTW.
Năm là, việc thực hiện Luật Ngân sách có những bất hợp lý. Trên thực tế, Ngân sách nhà nước cũng được nắm giữ ngoại tệ đã làm phân tán nguồn ngoại tệ, làm ảnh hưởng tới chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế, không phù hợp với thông lệ quốc tế và gây ảnh hưởng không nhỏ tới cung cầu ngoại tệ và điều hành hoạt động của NHTW.
2.3.2.2. Một số vấn đề phát sinh cụ thể trong Luật NHNN
Luật NHNN quy định về quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối của NHNN tại mục 5 chương III nhưng có nhiều nội dung chưa đầy đủ, chưa phù hợp với nền kinh tế. Vấn đề này được thể hiện rõ ngay trong các khoản mục của Luật NHNN.
Trước tiên, Luật NHNN đã quy định thiếu trách nhiệm của NHNN trong việc quản lý ngoại hối. Tại điểm 5 Điều 37, chỉ quy định nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN là kiểm soát hoạt động ngoại hối của các TCTD mà không quy định quản lý đối với các loại hình khác như công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, qũy đầu tư phát triển... Trong khi đó, trên thực tế, thị trường tài chính nước ta ngày càng phát triển, trong đó có thị trường chứng khoán, đã và đang thu hút các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư hoặc theo sự phát triển của nền kinh tế thì nhiều loại tổ chức mới ra đời cũng tham gia hoạt động ngoại hối (như công ty môi giới ngoại hối, các qũy tương hỗ, qũy tín thác...). Vì vậy, các loại hình tổ chức này cũng đòi hỏi phải có quản lý Nhà Nước về hoạt động quản lý ngoại hối đối với hoạt động này nhằm tạo ra khung pháp lý đầy đủ cho hoạt động của thị trường.
Hai là, tại điều 39 về hoạt động ngoại hối của NHNN hiện nay chỉ quy định NHNN thực hiện việc mua bán ngoại hối trên thị trường trong nước và quốc tế vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Quy định như vậy là chưa đủ và chưa thể hiện rõ vai trò của NHNN khi thực hiện chức năng của một NHTW, vì ngoài việc mua bán ngoại hối trên thị trường, NHTW còn thực hiện nhiều nghiệp vụ ngoại hối khác như các hoạt động về đầu tư dự trữ ngoại hối, vay và cho vay ra nước ngoài, bảo lãnh vay nước ngoài của các TCTD... để thực hiện chức năng và các nhiệm vụ của mình.
Ba là, có những điều khoản của Luật chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của Luật ngoại hối nhưng lại không đầy đủ. Điển hình như trong Điều 5 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN, nhưng tại mục 1 khoản c lại không đề cập tới nhiệm vụ quyền hạn của NHNN trong việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về ngoại hối mà chỉ đề cập tới tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Như vậy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35609.doc