Chính phủ Việt Nam đã có quyết định số 150/2005/TTg quyết định ổn định diện tích từ 450-500.000ha, sản lượng khoảng 1triệu tấn. Tiếp đó ngày 26/8/2008 Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã có quyết định phê duyệt đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê đến 2015 và định hướng 2020. Nâng cao chất lượng và sản lượng bằng cách áp dụng GAP trong sản xuất thu hái và GMP trong chế biến cà phê thực hiện tiêu chuẩn nhà nước 4193/2005 và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh khâu chế biến sâu như rang xay và cà phê hòa tan để nâng cao giá trị thương mại cho mỗi kilogram cà phê.
Sản xuất cà phê có chứng chỉ như Utz Certified, Good inside, Rainforest Alliance, Organic coffee, Fair Trade .cung cấp cà phê đặc biệt (speciality Robusta coffee) cho các siêu thị các thị trường chọn lọc (selected markets) và đặc biệt là tham gia sản xuất cà phê được đánh giá theo Bộ quy tắc chung cho cộng đồng cà phê (4C compliant coffee) cho sản xuất đại trà.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3916 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý. Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của cả nước có khoảng trên 13.000 ha, cho sản lượng 6.000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên.
Yêu cầu đầu tiên đối với việc thu hái cà phê là hái đúng tầm chín. Để có cà phê chất lượng cao nhất thiết phải có quả chín đỏ hay vừa chín, không hái quả xanh. Không để quả chín nẫu hay khô trên cây. Nếu có lẫn những loại này thì cần bỏ ra phơi riêng.
Hái cà phê bằng cách dùng ngón tay bứt quả, không tuốt cành, không bứt cả chùm đối với cà phê chè. Phải bảo vệ cành, lá, nụ tránh ảnh hưởng tới vụ sau. Không để quả cà phê lẫn vào trong đất dễ bị nhiễm nấm bệnh.
Cà phê hái xong phải chế biến ngay. Nếu không kịp phải trải quả cà phê trên nền gạch cho thoáng mát, không quá dày 30 – 40 cm. Không ủ đống cà phê làm cho quả cà phê nóng và lên men. Không giữ cà phê hái về quá 24giờ.
Bao bì đựng sản phẩm cà phê quả tươi và phương tiện vận chuyển phải sạch, không có mùi phân bón, mùi hoá chất…
Có hai phương pháp chế biến: Chế biến khô và chế biên ướt. Với cà phê chè hầu hết là dùng phương pháp chế biến ướt và cả một phần cà phê vối cũng chế biến theo phương pháp ướt (hoặc nửa ướt) nếu có yêu cầu của khách hàng.
Cà phê vối Tây Nguyên, do mùa thu hoạch thường là mùa khô nên người ta áp dụng chế biến khô để tận dụng năng lượng mặt trời.
Chế biến ướt: Cà phê sau khi hái về phải chọn lọc loại riêng quả xanh, quả khô, loại bỏ cành lá rụng và đất đá… Quả cà phê chín được đưa vào máy xát tươi để tách vỏ qủa ra. Nhân cà phê đã tách vỏ quả, còn vỏ trấu gọi là cà phê thóc.
Cà phê thóc phải loại bỏ lớp nhớt bên ngoài vỏ trấu. Đó là giai đoạn ngâm và rửa. Vì thế người ta gọi phương pháp này là chế biến ướt. Và cà phê chế biến theo phương pháp này “cà phê rửa”.
Cà phê thóc loại bỏ lớp nhớt bên ngoài và được rửa sạch là cà phê thóc ướt. Cà phê này qua phơi sấy cho khô, có độ ẩm dưới 10 – 12% gọi là cà phê thóc sấy khô.
Nếu cà phê quả tươi là nguyên liệu (đầu vào) của quá trình chế biến ướt thì sản phẩm cà phê thóc khô là đầu ra của quá trình này.
Cà phê thóc khô qua quá trình xát khô, loại bỏ vỏ trấu, đánh bóng ( loại bỏ vỏ lụa dính bên ngoài nhân cà phê) sẽ thu được cà phê nhân. Cà phê nhân còn qua phân loại mới trở thành cà phê thương phẩm cho việc buôn bán.
Chế biến khô: Quả cà phê đưa về không xát tươi mà đưa ra phơi khô cho đến khi độ ẩm xuống còn 12 – 13 %. Thường 1 mẻ cà phê phơi khô mất 25 -30 ngày. Đưa cà phê phơi khô vào xát bằng máy xát khô cà phê, loại bỏ vỏ qủa, vỏ trấu khô ta được cà phê nhân thành phẩm.
Ngoài hai phương pháp trên, ở nước ta thường áp dụng phương pháp chế biến nửa ướt. Ở phương pháp này, người ta xát tươi quả cà phê bằng loại máy xát tươi kèm theo đánh sạch một phần nhớt rồi mang phơi, không ủ len men và rửa sạch hoàn toàn.
Cà phê thành phẩm đưa vào bảo quản phải đảm bảo đã được phơi sấy đạt đến độ ẩm 11 -12 % và không để cà phê khô bị ướt trở lại. Giảm tỷ lệ tạp chất trong cà phê thành phẩm xuống mức thấp nhất, tối đa không quá 0,5 %.
Trên lý thuyết quá trình sản xuất là vậy nhưng do thói quen cố hữu "tuốt cành" khi thu hoạch cà phê của người nông dân (80% nông dân áp dụng cách này) do đó quả xanh chín lỗn lộn dẫn đến chất lượng cà phê không cao, thiếu ổn định khiến lượng cà phê bị thải loại. Ngoài ra còn là do công nghệ nhà máy chế biến của nước ta hiện vẫn còn yếu, so với yêu cầu về chất lượng sản phẩm, đặc biệt là chất lượng xuất khẩu thì năng lực chế biến ở khâu sơ chế chỉ đạt khoảng 20%, khâu tinh chế đạt 40%, công nghệ sấy chất lượng cao mới chỉ đạt 20%.
3.2. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
3.2.1. Sản lượng, kim ngạch xuất khẩu của cà phê Việt Nam trong những năm gần đây.
Theo số liệu của trang web Wikipedia, Việt Nam là một trong 17 nước xuất khẩu caphê lớn nhất thế giới. Trong đó, đứng đầu là Braxin, và Tổng sản lượng của ba quốc gia đứng đầu là Brasil, Việt Nam và Colombia nhiều hơn tất cả các nước khác cộng lại.
* Sản lượng trong những năm gần đây :{Nguồn : Wikipedia + Tổng cục hải quan}
Sản lượng cà phê (nghìn bao)Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO)
Quốc gia
Niên vụ
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Db 2010
Brasil
(R/A)
T.4-T.3
48.480
28.820
39.272
32.944
46.700
39.100
53.300
44.800
55.300
Việt Nam
(R/A) T.10-T.9
11.555
15.230
13.844
11.000
13.500
15.500
15.830
16.670
17.366
Colombia
(R/A) T.10-T.9
11.889
11.197
11.405
11.550
11.420
12.500
12,515
8,664
11.500
Trong niên vụ 2006 - 2007 Việt Nam xuất khẩu khoảng 1,2 triệu tấn, 6 tháng đầu niên vụ 2007 - 2008 đạt 580.000 tấn.
Theo số liệu hải quan hải quan tính chung 4 tháng đầu năm 2009, cả nước đã xuất khẩu được 555 nghìn tấn cà phê với trị giá 832 triệu USD, tăng 31,4% về lượng nhưng giảm 2,5% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2008.
Theo số liệu do Tổng cục Hải quan vừa công bố : chỉ tính riêng trong tháng 7/2010, nước ta đã xuất khẩu gần 89,5 nghìn tấn cà phê, đạt kim ngạch 137,5 triệu USD. Phân tích xu hướng biến động của chuỗi giá trị xuất khẩu thủy sản trong những năm qua cho thấy khối lượng cà phê xuất khẩu năm 2010 có thể đạt con số 1,1 triệu tấn với kim ngạch là 1,67 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam rất rộng, hiện có trên 70 quốc gia trên thế giới nhập khẩu cà phê từ Việt Nam, ngoài những nước nhập khẩu chính ở Châu Âu, Hoa Kỳ, Châu Á, còn có các nước Trung Cận Đông, Châu Phi, một số nước trong hiệp hội ASEAN và Trung Mỹ. Trong đó Mĩ và EU là hai bạn hàng lớn nhất, một số nước EU nhập khẩu nhiều cà phê Việt Nam như Italia, Đức, Tây Ban Nha..
Từ số liệu năm 2005 đến 2010. ta thấy : Sản lượng cà phê của Việt Nam chiếm khoảng từ 12.43 % đến gần 15 % sản lượng của thế giới
3.2.2 Giá cả và chất lượng cà phê.
* Giá cà phê trên thị trường thế giới
Tuy nhiên, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn cùng loại của nước ngoài từ 100 – 150 USD/ tấn. Chủ yếu là do chất lượng cà phê của ta. Điểm yếu nhất của việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam là chất lượng cà phê Việt Nam không đồng đều và không ổn định, đặc biệt là khối lượng lớn cà phê của Việt Nam bị thải loại ở một vài thị trường. Mặt khác, hầu hết cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chưa áp dụng TCVN cho kiểm tra chất lượng mà dựa trên sự thỏa thuận giữa bên mua và bên bán bằng cách áp dụng phân loại chất lượng theo tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ, tạp chất. Đây là cách phân loại đơn giản và lạc hậu không phù hợp với việc mua bán trên thương trường quốc tế
3.3. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu cà phê trên Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, tuy nhiên các nước nhập khẩu chủ yếu là Mĩ và EU. Một phần lớn đó là do thói quen và thị hiếu tiêu dùng ở các nước khác nhau thì khác nhau.
Khu vực ASEANvốn dĩ không phải thị trường tiêu thụ cà phê lớn của chúng ta, tuy nhiên đó là một khu vực tiềm năng để gia tăng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Thuận lợi mà chúng ta có được là vị trí địa lý gần gũi, khí hậu và thói quen tiêu dùng tương tự, chúng ta có khả năng quảng bá và phát triển hơn. ASEAN cũng là khu vực kinh tế đang phát triển, đây là một cơ hội lớn để mở rộng thị trường.
Tuy nhiên, chúng ta phải đối mặt với một số khó khăn. Ví dụ như đối thủ cạnh tranh. Indonesia là một đối thủ cạnh tranh lớn của chúng ta. 1/6 dân số Đông Nam Á ở bán đảo Java { Indonesia} và đây cũng là một nước xuất khẩu cà phê lớn của thế giới { dựa trên số liệu của ICO – năm 08/09 }.
Đối với mặt hàng cà phê, kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN năm 2007 đạt 145 triệu USD. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 đạt 155 triệu USD, tăng 7% so với năm 2007. Năm 2008, Philippine đã mua 19.330 tấn, Malaysia mua 17.903 tấn, Thái Lan cũng đã tăng sản lượng lên 11.949 tấn.
Các thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu thấp nhất gồm Lào (100 triệu USD), Myanmar (15 triệu USD) và Brunei (5 triệu USD). Với Myanmar, việc đẩy mạnh giao thương khó khăn vì tình hình chính trị không ổn định, cơ chế thanh toán có nhiều bất cập. Còn Brunei là thị trường hẻo lánh, ít dân, do vị trí địa lý và điều kiện không thuận lợi nên quan hệ thương mại giữa hai nước gần như chưa phát triển. Thị trường Lào có thể phát triển được, nhưng tương lai sẽ cần những đầu tư lớn.
Bên cạnh hai loại sản phẩm chính là cà phê chè và cà phê vối, Việt Nam hiện nay còn sản xuất được cà phê chồn ( cà phê Weasel ). Đại diện một công ty cà phê cho biết sau khi thu mua phân chồn lẫn cà phê từ người nuôi, họ chế biến và bán với giá hơn 600 USD một kg. Dù Việt Nam có sản xuất cà phê chồn, thậm chí có loại hảo hạng, nhưng cho đến nay cà phê Kopi Luwak của Indonesia vẫn nổi tiếng là đắt nhất thế giới và được nhiều người biết đến hơn, đại diện của Trung Nguyên chia sẻ. Mặt hàng này khá có tiềm năng xuất khẩu nhưng kể cả những người có tiền cũng khó mà mua cà phê chồn Weasel vì mỗi năm Trung Nguyên chỉ sản xuất được từ 40 đến 50 kg. Do đó, sản phẩm này hiện chưa dành xuất khẩu mà chỉ bán ở số lượng nhất định theo đơn đặt hàng của các khách hàng VIP.
Chương IV: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường ASEAN.
4.1. Dự báo thị trường cà phê thế giới: cung cầu thị trường cà phê của ASEAN.
ASEAN- một thị trường đáng để chinh phục, với sự hỗ trợ của ASEAN và EU, của chính phủ hai nước, với sự hoạt động năng động của các bên, hợp tác giữa ASEAN - Việt Nam – EU - Cộng hoà Pháp trong lĩnh vực kinh tế thương mại, sẽ phát triển sâu rộng” . Trong những năm qua quan hệ thương mại hàng hóa song phương giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN ngày càng phát triển và đạt được nhiều thành tựu khả quan.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong những năm gần đây các thành viên ASEAN luôn là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Việt Nam với trị giá hàng hóa buôn bán hai chiều đạt mức tăng trưởng 25,9%/năm trong giai đoạn 2005-2008 và 13,3%/năm trong giai đoạn 2005-2009. ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ sau thị trường Hoa Kỳ và thị trường các nước thành viên Liên minh châu Âu-EU. Còn ở chiều ngược lại, ASEAN là đối tác thương mại cung cấp nguồn hàng hóa lớn thứ hai cho các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ đứng sau Trung Quốc.
Sang năm 2010, tình hình kinh tế thế giới hồi phục, nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường ASEAN trong 6 tháng đầu năm cũng đạt hơn 5,24 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2009 và chiếm 16,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Trong kỳ họp thứ 6 vừa qua ở ChiengRai TháiLan hội nghị đã thảo luận về xúc tiến thương mại cà phê của các nước ASEAN. Các đại biểu công nghiệp và xuất khẩu Indonesia đưa ra quan niệm ASEAN có ảnh hưởng nhất định trong khu vực là yếu tố quan trọng về phát triển thị trường ASEAN. Trong hiệp hội có những nước có tiềm năng sản xuất cà phê to lớn như Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Philipppines, Campuchia và Lào và cũng có tiềm năng tiêu dùng to lớn.
Ngoài ra ASEAN còn có công nghệ chế biến cà phê lớn như Malaysia, Singapore. Trong tương lai ASEAN sẽ mở rộng sự hợp tác với các khu vực khác.
Việt Nam ủng hộ ý tưởng thành lập Câu lạc bộ hay là Hiệp hội cà phê ASEAN. Ngoài ra cũng chia sẻ quan điểm nếu dỡ bỏ hàng rào quan thuế và các rào cản kỹ thuật thì sản xuất và thương mại cà phê sẽ phát triển có hiệu quả hơn. Các đại biểu Việt Nam, Indonesia, Thái Lan đã họp và nhất trí tổ chức Câu lạc bộ cà phê của ASEAN (CCA: Coffee club of ASEAN) với thành phần các doanh nghiệp tư nhân với sự giúp đỡ và quan sát của cơ quan nhà nước.Tháng đầu của năm 2010, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường ASEAN của Việt Nam đạt 850,6 triệu USD, tăng 8,4% so với tháng 12 năm 2009 và tăng 60,60% so với cùng kỳ năm trước.Theo đó, thuế trung bình mà các nước ASEAN đánh vào hàng hoá Trung Quốc sẽ giảm từ 12,8% xuống còn 0,6% khiến cho hàng hóa Trung Quốc càng có nhiều lợi thế hơn, nhất là về giá.
Tháng đầu của năm 2010, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường ASEAN của Việt Nam đạt 850,6 triệu USD, tăng 8,4% so với tháng 12 năm 2009 và tăng 60,60% so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng cà phê cũng có mức tăng lần lượt là 41,18% và 19,76% so với tháng trước và cùng kỳ năm ngoái.
4.2. Phương hướng xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Dự kiến kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt 220 triệu USD, tăng bình quân 15%/năm. Tuy nhiên, để đạt được kim ngạch xuất khẩu nêu trên cần tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng đến vấn đề chất lượng để tăng thêm giá trị gia tăng.
Chính phủ Việt Nam đã có quyết định số 150/2005/TTg quyết định ổn định diện tích từ 450-500.000ha, sản lượng khoảng 1triệu tấn. Tiếp đó ngày 26/8/2008 Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã có quyết định phê duyệt đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê đến 2015 và định hướng 2020. Nâng cao chất lượng và sản lượng bằng cách áp dụng GAP trong sản xuất thu hái và GMP trong chế biến cà phê thực hiện tiêu chuẩn nhà nước 4193/2005 và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh khâu chế biến sâu như rang xay và cà phê hòa tan để nâng cao giá trị thương mại cho mỗi kilogram cà phê. Sản xuất cà phê có chứng chỉ như Utz Certified, Good inside, Rainforest Alliance, Organic coffee, Fair Trade….cung cấp cà phê đặc biệt (speciality Robusta coffee) cho các siêu thị các thị trường chọn lọc (selected markets) và đặc biệt là tham gia sản xuất cà phê được đánh giá theo Bộ quy tắc chung cho cộng đồng cà phê (4C compliant coffee) cho sản xuất đại trà.
Tăng cường công tác thông tin thị trường và xúc tiến thương mại vào các thị trường lớn, các doanh nghiệp rang xay…mở rộng tiêu dùng cà phê trong nước.
Bộ trưởng Cao Đức Phát chỉ rõ: Nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng là hướng đi của cà phê Việt Nam, không mở rộng diện tích mà tập trung khai thác triệt để lợi thế để có kim ngạch xuất khẩu lớn, phải “tấn công” mạnh mẽ hơn vào phần giá trị thặng dư mà các nhà nhập khẩu - chế biến cà phê rang xay, cà phê chế biến sâu đang nắm giữ (ước tính đến 90% so với 10% dành cho người trồng và chế biến cà phê nhân xô). Giải pháp kỹ thuật không thiếu, vấn đề quan trọng là phải đề ra cho được các cơ chế, chính sách cụ thể để nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam và phải có các biện pháp chỉ đạo quyết liệt. Cụ thể:
- Trong lĩnh vực trồng trọt, Bộ giao Cục Trồng trọt chủ trì, phối hợp với Viện khoa học NLN Tây Nguyên hoàn thành việc soạn thảo quy trình sản xuất tốt (GAP) đối với cà phê và các chính sách để người dân và các doanh nghiệp thực hiện; có quy chế quản lý và hướng dẫn việc tổ chức xác nhận. Trên cơ sở đó, mở rộng diện tích sản xuất cà phê hữu cơ, kết hợp với việc tái canh, thay thế các vườn cà phê già cỗi. Các tổ chức khuyến nông phải tập trung nguồn lực, tổ chức các hoạt động tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân trong lĩnh vực này; các doanh nghiệp cần chủ động tạo liên kết, hỗ trợ nông dân sản xuất nguyên liệu sạch hơn, đảm bảo thu mua cà phê chất lượng tốt với giá cả cao hơn.
- Trong lĩnh vực chế biến – thương mại, Cục Chế biến thương mại nông lâm thuỷ sản và nghề muối xây dựng ngay các chính sách (tín dụng, thuế) nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao, áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tiên tiến để trình Chính phủ; phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng chính sách hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp xử lý môi trường trong chế biến ướt nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững. Nỗ lực hơn trong xúc tiến thương mại đối với ngành hàng cà phê; đưa nội dung mở cửa thị trường cho cà phê chế biến sâu của Việt Nam thâm nhập thị trường thông qua đàm phán Quốc tế. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ cùng Hiệp hội Cà phê – Ca cao kiến nghị Chính phủ quy chế quản lý xuất khẩu cà phê (như đối với lúa gạo) trên cơ sở phù hợp với Luật Thương mại.
Bộ trưởng Cao Đức Phát yêu cầu lãnh đạo UBND, Sở NN-PTNT các tỉnh trồng cà phê cần chỉ đạo sâu sát hơn, làm tốt chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn, trong đó có việc UBND tỉnh Đắc Lắc cần quy định cụ thể về ghi nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột để từng bước xây dựng và khẳng định thương hiệu. Tổng Công ty Cà phê Việt Nam cần có chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, khẳng định thương hiệu Vinacafe trên trường quốc tế.
Để xây dựng một ngành cà phê phát triển bền vững, chúng ta cần đảm bảo toàn ngành có một diện tích và sản lượng cà phê ổn định với gần nửa triệu hecta cà phê hàng năm sản xuất ra khoảng 900.000 tấn (16 triệu bao); không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, quan tâm đầy đủ vấn đề vệ sinh – an toàn- thực phẩm vì các tổ chức quốc tế quan tâm nhiều đến các vấn đề này. Với cà phê Robusta nếu được hái chin và chế biến theo phương thức ướt hoặc nửa ướt vẫn có thể cho sản phẩm có chất lượng cao và bán với giá tốt; cần xây dựng mạng lưới thông tin đầy đủ, kịp thời là cơ sở cho các nhà sản xuất và kinh doanh ra quyết định chính xác, tránh thu thiệt.
Tất cả những vấn đề nêu trên đều nhằm xác định phương hướng đi tới ngành cà phê Việt Nam. Với những đề án về thâm canh cây công nghiệp lâu năm trong đó cà phê, nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê đến 2015 và định hướng 2020 của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, sự quan tâm đầu tư của Chính phủ và các Bộ ngành Tài chính, Ngân hàng, ngành cà phê Việt Nam sẽ thực hiện được chương trình phát triển bền vững của mình và có vị thế vững chắc trên thị trường cà phê quốc tế.
* Phương hướng xuất khẩu cà phê của nước ta.
- Định hướng về dài hạn:
Sản xuất cà phê phải đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng cà phê xuất khẩu, chủng loại cà phê xuất khẩu, độ an toàn của cà phê xuất khẩu và sản xuất cà phê có vai trò gì đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng như đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Định hướng này đã giúp cho người nông dân có thêm trí thức kinh nghiệm trong sản xuất, nắm bắt thông tin về giá cả thị trường một cách nhanh chóng. Đồng thời tạo ra các mối quan hệ trong sản xuất và hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của nhiều nước có nền kinh tế phát triển, cơ sở sản xuất kĩ thuật dồi dào, có kinh nghiệm trong mua bán cà phê. Định hướng này đã phát huy tốt tính năng của mọi thành phần kinh tế, huy động được vốn và lao động sản xuất cà phê nơi có nguồn lợi lớn hơn nhưng thiếu đầu tư. Đồng thời khẳng định vị trí của sản xuất cà phê xuất khẩu của Việt Nam, là hướng đi dài từ đó để người dân yên tâm hơn vào sự đầu tư phát triển kinh doanh.
- Định hướng về hiệu quả kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường .
Sản xuất cà phê xuất khẩu phải có lãi thực sự. Định hướng này kết hợp với dự toán về điều kiện tự nhiên ở khu vực sản xuất cà phê để bố trí sản xuất hợp với nhu cầu thị trường. Đây là một định hướng đúng đối với các nhà kinh doanh cà phê xuất khẩu. Trong nguy cơ mất cân bằng sinh thái diễn ra mạnh mẽ thì việc triển khai các tiềm năng hiện có để phát triển trồng cà phê phải đảm bảo làm sao vừa tăng khối lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu vừa đảm bảo môi trường sinh thái, tạo ra sự phát triển bền vững cho ngành hoạt động nói riêng và nền kinh tế nói chung, về giá phải trả cho sự phá huỷ môi trường sinh thái là rất đắt.
- Định hướng về hiệu quả xã hội.
Cây cà phê thích hợp với các vùng đồi núi hơn là vùng đồng bằng. Khi phát triển sản xuất cây cà phê sẽ kéo theo sự xuất hiện hàng loạt các công trình kinh tế xã hội. Điều đó sẽ làm cải thiện đời sống nhân dân ở miền núi. Cùng với việc thu hút một đội ngũ lao động dồi dào sẽ là một phương tiện rất tốt để giảm bớt tỷ lệ lao động thất nghiệp ở các vùng này. Như vậy hiệu quả xã hội rất lớn do việc phát triển sản xuất cà phê xuất khẩu làm thay đổi đời sống nhân dân theo hướng có lợi nhất.
- Định hướng kết hợp nguồn lực trong nước tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài.
Cần phải xác định nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng để phát huy nội lực, khai thác ngoại lực thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề ra là thu hút đầu tư nước ngoài, vay vốn lãi xuất thấp, mở rộng liên doanh liên kết.
Để đầu tư vào chế biến nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu, mở rộng xuất khẩu ổn định thì ngành sản xuất cà phê cần chú ý các điểm cơ bản sau:
+ Khối lượng sản phẩm lớn, cơ cấu xuất khẩu cân đối và hợp lý.
+ Từng bước mở rộng diện tích cà phê để thay đổi cơ cấu mặt hàng cà
phê.
+ Tăng cường chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm.
+ Tiếp cận thị trường tiêu thụ cà phê của các nước trên thị trường cà
phê thế giới tập trung xuất khẩu vào thị trường có nhu cầu lớn và tiến tới xuất khẩu trực tiếp.
+ Mở rộng tăng cường hoạt động quảng cáo.
- Cơ chế quản lý các doanh nghiệp sản xuất cà phê.
Cơ chế này phải phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành, phù hợp với mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần có sự phân định và giải quyết mối quan hệ giữa chức năng kinh tế và chức năng xã hội của các doanh nghiệp nhà nước và giữa chức năng kinh doanh của doanh nghiệp với chức năng quản lý hành chính kinh tế của nhà nước, tránh khuynh hướng nhà nước can thiệp quá sâu hoặc doanh nghiệp tự phát.
4.3. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê sang thị trường ASEAN.
4.3.1.Giải pháp vi mô.
4.3.1.1. Các giải pháp về thị trường:
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Có thể tạo bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong phát triển vùng trồng cà phê theo phương thức cổ phần hoá.Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất cà phê theo hai hướng :
Giảm bớt diện tích cà phê Robusta, chuyển các diện tích càphê phát triển kém không có hiệu quả sang các loại cây trông khác.
Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện khí hậu đất đai thật thích hợp.
Mở rộng mô hình sản xuất cà phê chồn. Từ lợi nhuận khổng lồ mà loại sản phẩm này thu về nên có chính sách phù hợp để phát triển nó.
Mục tiêu cuối cùng của chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng từ 450.000ha đến 500.000ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi.Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu này là hợp lý đối với nông nghiệp Việt Nam cũng như đối với thị trường cà phê quốc tế.
Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng còn tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của nhà nước cho nông dân vì đây cũng là một việc làm tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển giao kỹ thuật đầy đủ, chu đáo. Ngoài ra vấn đề đổi giống mới tốt hơn cho các vườn cà phê cũng là một khâu quan trọng cần được đầu tư và cũng cần thời gian. Đây cũng là một chương trình trung hạn của ngành cà phê Việt Nam.
Mở rộng các chủng loại mặt hang cà phê xuất khẩu không chỉ có cà phê nhân sống.
Việt Nam hiện có hai nhà máy sản xuất cà phê hoà tan đang hoạt động, một là Nhà máy cà phê Biên Hoà thuộc VINACAFE, một là của Nestle Thái Lan.Vấn đề là tìm thị trường mở rộng thị trường tiêu thụ để tạo điều kiện mở rộng sản xuất. Vấn đề cà phê dạng lỏng đóng hộp cũng đang được xem xét
Mở rộng thị trường cho cà phê ở Việt Nam ở thị trường ASEAN đồng thời xúc tiến việc tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả của việc tiếp thị, tìm kiếm thị trường là một yêu cầu bức thiết của ngành Việt nam. Hiện nay cà phê Việt nam được xuất sang trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng còn thiếu những thị trường truyền thống. Những bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy còn chưa thật nhiều. Vì vậy càng cần phải tạo sự tin cậy của ngành cà phê Việt Nam với thị trường ASEAN. ASEAN là một thị trường tiềm năng cần phải tập trung khai thác của ngành cà phê Việt Nam. Cần tạo nhiều điều kiện và tìm kiếm nhiều bạn hang ở khu vưc Đông Nam Á đưa ASEAN thành thị trường truyền thống và là bạn hàng lâu năm của ngành cà phê Việt Nam.Ngành cà phê Việt nam cũng còn chưa tham gia các thị trường kỳ hạn. Đó cũng là mặt hạn chế của ngành cà phê .
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là tiềm năng thị trường trong nước còn chưa được khai thác. Mặc dù người Việt nam có tập quán uống trà từ lâu đời nhưng với lớp trẻ hiện nay việc xúc tiến tiêu thụ cà phê có nhiều triển vọng.
- Tổ chức tốt công tác thông tin,dự báo thị trường và thông tin thương mại
Thông tin thị trường là yếu tố quan trọng với bất kỳ ngành sản xuất sản phẩm nào,với ngành cà phê cũng vậy thong tin là yếu tố quan trọng trong việc đưa ra các quyết đinh về phát triển sản phẩm. Công tác dự báo thị trường phải được tổ chức một cách chặt chẽ và theo những thong tin chính xác từ công tác dự báo nhà quản lý mới đưa ra quyết định cho sản xuất và hướng đi cho thị trường cà phê.
- Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho ngành cà phê.
Áp dụng công nghệ sau thu hoạch tiên tiến đổi mới thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp với bảo vệ môi trường.
Trong những năm gần đây công nghiệp sơ chế cà phê ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Người ta đã trang bị thêm nhiều thiết bị mới chất lượng tốt trong chế biến. Tuy nhiên với cà phê Arabica thì chế biến vẫn còn là một việc làm có nhiều khó khăn, đặc biệt là ở khâu đầu tiên lột vỏ quả, làm sạch nhớt.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Gi7843i php pht tri7875n xu7845t kh7849u m7863t hng c phamp.doc