Bộ luật dân sự Việt Nam không ngừng hoàn thiện phần giám hộ. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều trường hợp luật dân sự và luật hôn nhân và gia đình không thống nhất, gây khó khăn trong việc áp dụng.
Ví dụ như một vụ tranh chấp thừa kế mà TAND TP.HCM thụ lý hiện đang bị ách lại vì chính quyền địa phương chưa thể cử được người giám hộ cho một người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.Vào tháng 10 năm 2010, TAND TP.HCM thụ lý vụ tranh chấp thừa kế mà ông T. là bị đơn. Ông H. ở Việt Nam và bốn người em khác ở nước ngoài được tòa xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trước đó, ông H. từng bị TAND TP tuyên bố bị mất năng lực hành vi dân sự. Theo luật, các giao dịch dân sự của ông phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện nên ngày 8-3-2010, TAND TP.HCM có công văn gửi UBND phường 4, quận 3 yêu cầu UBND phường cử người giám hộ cho ông H. Theo công văn trên, ông H. và ông T. là anh em ruột, ở cùng một nhà nhưng ông T.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13357 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giám hộ theo quy định của pháp luật hiện hành-Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hộ đương nhiên pháp luật đã quy định trước ai sẽ thuộc đối tượng có quyền giám hộ. Cứ theo thứ tự luật định mà họ đương nhiên là người giám hộ đối với người được giám hộ không đòi hỏi bất cứ trình tự thủ tục nào để cử làm người giám hộ.
+ Giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên.
Giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên là giám hộ do pháp luật quy định mang tính bắt buộc được đặt ra đối với người thân thích của người chưa thành niên, với điều kiện họ có đủ các yêu cầu quy định tại điều 61 BLDS. Như vậy theo quy định tại điều này thì: trong trường hợp anh, chị ruột không có thỏa thuận khác thì anh cả hoặc chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên, nếu anh cả khoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là người giám hộ. Trong trường hợp không có anh ruột, chị ruột hoặc anh cả, chị cả không có đủ điều kiện thì ông nội, bà nội ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ. Nếu không có ai trong số những người thân thích này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì là người giám hộ. Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại có đủ điều kiện là người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên khi cháu không còn cả cha và mẹ hoặc còn cha mẹ nhưng cha mẹ không đủ điều kiện và cháu không có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột không đủ điều kiện làm người giám hộ.
+ Giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự.
Khái niêm giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự cũng được quy định tại điều 62 BLDS đối với người chưa thành niên. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định theo thủ tục sau:
Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ. Nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự còn người kia không có đủ điều kiện làm giám hộ thì người con cả là người làm giám hộ, nếu con cả không có đủ điều kiện thì người con tiếp theo có đủ điều kiện là người làm giám hộ.
Trong trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
- Giám hộ được cử.
Là hình thức giám hộ theo trình tự do pháp luật quy định. Nếu không có người giám hộ đương nhiên thì UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người giám hộ có trách nhiệm đề nghị một cá nhân của tổ chức làm giám hộ đều có thể trở thành người giám hộ được cử.Việc cử người giám hộ được thực hiện theo 2 trường hợp cụ thể: không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại điều 61 và điều 62 BLDS năm 2005.
Ngoài ra, trong chế định giám hộ không đề cập tư cách giám hộ của cha, mẹ với con chưa thành niên nhưng có thể suy đoán mặc nhiên vai trò của cha, mẹ đối với các con với tư cách là người đại diện đương nhiên cho con chưa thành niên.
4. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ
a. Nghĩa vụ của người giám hộ
Tại các điều 65, điều 66, điều 67 BLDS 2005 có quy định rõ về nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ.
- Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ 15 tuổi.
Người giám hộ của người được giám hộ chưa đủ 15 tuổi có các nghĩa vụ sau đây:
+ Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ
+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ 15 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
+ Quản lí tài sản của người được giám hộ.
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
- Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi bao gồm các nghĩa vụ: đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, quản lí tài sản của người được giám hộ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
- Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người mất năng lực hành vi dân sự.
Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:
+ Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ. Đây là dấu hiệu rất quan trọng để phân biệt giám hộ với đại diện.
+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự. Mọi giao dịch dân sự có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ đều do người giám hộ thực hiện với tư cách là người dại diện theo pháp luật.
+ Quản lí tài sản của người được giám hộ: người giám hộ có trách nhiệm quản lí tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; có trách nhiệm bảo quản, gìn giữ tài sản, không làm hư hỏng, mất mát tài sản của người được giám hộ; không được cho, tặng tài sản của người được giám hộ; chỉ sử dụng định đoạt tài sản vì lợi ích của người được giám hộ. Đối với những giao dịch có giá trị lớn thì phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của người giám hộ, pháp luật quy định những giao dịch dân sự của người giám hộ đối với người được giám hộ liên quan đến tài sản đều vô hiệu. Bởi người giám hộ là người đại diện cho người được giám hộ cho nên những giao dịch dân sự này có sự “hỗn nhập” tư cách chủ thể trong một quan hệ. Ngoài ra, người giám hộ đối với người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực hành vi một phần, với tư cách là người đại diện kiểm soát việc thực hiện các giao dịch do người được giám hộ thực hiện dưới hình thức “đồng ý” – đồng ý việc thực hiện giao dịch cũng như nội dung của giao dịch đó.
b. Quyền của người giám hộ
Người giám hộ có các quyền được quy định tại điều 68 BLDS, ngoài ra còn có thể có các quyền khác được quy định trong văn bản cử giám hộ (điều 64 BLDS). Các quyền của người giám hộ nhằm thực hiện mục đích của việc giám hộ là chăm sóc, chữa bệnh và bảo vệ quyền lợi của người được giám hộ.
Bên cạnh nghĩa vụ đối với người được giám hộ thì người giám hộ có các quyền sau đây:
- Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc,chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ: Trong trường hợp người được giám hộ có tài sản thì người được giám hộ không chỉ có nghĩa vụ quản lí mà còn có quyền quản lí tài sản đó để chăm sóc chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu, hợp lí của người được giám hộ. Nhu cầu cần thiết của người được giám hộ cần xác định căn cứ vào người được giám hộ.
- Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lí tài sản của người được giám hộ. Trong trường hợp người được giám hộ phải bỏ ra một chi phí cần thiết thì được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lí tài sản của người được giám hộ.
- Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Người giám hộ có thể thực hiện việc mua bán trao đổi, cho mượn, cho thuê, cho vay, cầm cố thế chấp…tài sản của người được giám hộ. Tuy nhiên pháp luật quy định rõ khi người giám hộ thực hiện các giao dịch đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Như vậy các quyền mà pháp luật quy định cho người giám hộ tương ứng với nhũng nghĩa vụ mà họ phải làm. Các quy định về quyền và nghĩa vụ phải làm của người giám hộ xuất phát từ tình cảm thương yêu, sự tự nguyện cưu mang,đùm bọc người được giám hộ mà không đòi hỏi một lợi ích vật chất nào cho việc giám hộ của mình.
5. Giám sát việc giám hộ
Giám sát việc giám hộ là quy định nhằm bảo đảm việc giám hộ được thực hiện theo đúng Pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Điều 59 BLDS hiện hành quy định: “Người thân thích của người được giám hộ có trách nhiệm cử người đại diện làm người giám sát việc giám hộ để theo dõi, đôn đốc, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ, xem xét, giải quyết kịp thời những đề nghị , kiến nghị của người giám hộ liên quan đến việc giám hộ.”
Vai trò của người giám sát được thể hiện trước hết là bảo đảm thực hiện một cách đúng đắn các hành vi sau đây:
- Giám sát việc người giám hộ thực hiện định đoạt tài sản của người được giám hộ để chi dung cho những nhu cầu cần thiết của người được giám hộ có đúng mục đích và trung thực hay không.
- Giám sát một số giao dịch dân sự mà pháp luật quy định cần phải có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
6. Đăng kí việc giám hộ
Đăng kí việc giám hộ được hiểu là hành vi của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi nhận việc xác lập quan hệ giám hộ. Là cơ sở pháp lí làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ giám hộ.
Chế định giám hộ có liên quan đến việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Bởi vậy việc giám hộ phải được đăng kí tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Quy định về đăng kí giám hộ được quy định chi tiết tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng kí quản lí hộ tịch:
- Về thẩm quyền đăng kí giám hộ:
UBND cấp xã nơi cư trú của người giám hộ hoặc nơi có trụ sở của cơ quan, tổ chức đảm nhận việc giám hộ thực hiện việc đăng kí giám hộ.
- Về thủ tục đăng kí việc giám hộ:
+ Người được cử làm giám hộ phải nộp Giấy cử giám hộ. Giấy cử giám hộ do người cử giám hộ lập; nếu có nhiều người cùng cử một giám hộ thì tất cả phải cùng kí vào giấy cử giám hộ.
+ Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc giám hộ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, thì UBND xã đăng kí việc giám hộ.Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn trên kéo dài thêm không quá 5 ngày.
+ Khi đăng kí việc giám hộ, người giám hộ và người được làm cử giám hộ phải có mặt. Cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng kí giám hộ.Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã kí và cấp công nhận việc giám hộ và người cử giám hộ mỗi bên một bản chính quyết định công nhận việc giám hộ. Bản sao quyết định công nhạn việc giám hộ được cấp theo yêu cầu của người giám hộ và người được cử làm giám hộ.
+ Trong trường hợp người được cử làm giám hộ có tài sản riêng, thì người cử giám hộ phải lập danh mục tài sản và ghi rõ tình trạng của tài sản đó, có chữ kí của người cử giám hộ và người được cử làm giám hộ.
Như vậy đăng kí giám hộ là thủ tục pháp lí bắt buộc để việc nhận giám hộ phát sinh hiệu lực pháp lí. Thời điểm đăng kí giám hộ sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.
- Mục đích và ý nghĩa của việc đăng kí giám hộ
+ Để người giám hộ ý thức rõ vai trò của mình là người chăm sóc, bảo vệ quyền lợi cho người được giám hộ, biết rõ quyền và nghĩa vị của mình sẽ phải làm trong khi thực hiện việc giám hộ.
+ Để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm giám sát việc giám hộ biết việc giám hộ xảy ra, có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra đôn đốc người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ. Xem xét, giải quyết kịp thời các khiếu nại có liên quan đến giám hộ.
+ Là cơ sở để xác định tư cách của người giám hộ khi tham gia vào GDDS hoặc các tranh chấp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được giám hộ.
7. Thay đổi và chấm dứt giám hộ
a. Các trường hợp thay đổi giám hộ.
Bộ luật dân sự 2005 quy định người giám hộ được thay đổi trong các trường hợp sau đây:
+ Người giám hộ không còn đủ các quy định quy định tại Điều 60 của bộ luật này;
+ Người giám hộ là cá nhân chết hoặc bị Tòa án tuyên bố mất tích, tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động;
+ Người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vị giám hộ
+ Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ
+ Người giám hộ có quyền đề nghị thay đổi giám hộ khi họ không thể đảm bảo tốt cho việc giám hộ. Đề nghị của họ đưa ra đương nhiên được pháp luật chấp nhận, việc giám hộ được chuyển giao cho người khác có đủ điều kiện làm giám hộ.
Khi thay đổi người giám hộ thì quan hệ giám hộ vẫn còn. Do đó những quyền và nghĩa vụ của người của người giám hộ đã chấm dứt còn người tiếp nhận việc giám hộ sẽ tiếp tục thực hiện việc giám hộ đó.
Pháp luật hiện hành đã có sự quy định cụ thể phải có sự chuyển giao giám hộ của người giám hộ được cử.
- Khi thay đổi người giám hộ thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có người giám hộ mới, người đã thực hiện việc giám hộ phải chuyển giao giám hộ cho người thay thế mình
- Việc chuyển giao giám hộ phải được lập thành văn bản, ghi rõ lí do chuyển giao và tình trạng tài sản của người được giám hộ tại thời điểm chuyển giao. Người cử người giám hộ giám sát việc giám hộ chứng kiến việc chuyển giao giám hộ.
- Nếu bị thay đổi người giám hộ vì lí do người giám hộ là cá nhân chết,bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự, mất tích; tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt dộng thì người cử người giám hộ lập biên bản, ghi rõ tình trạng tài sản của người đực giám hộ, quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình thực hiện việc giám hộ để chuyển giao cho người giám hộ mới với sự chứng kiến của người giám sát việc giám hộ.
b. Các trường hợp chấm dứt việc giám hộ
Giám hộ là một chế định được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ nhưng khi người giám hộ đã có thể tự mình thực hiện được các quyền của mình, thì việc tiếp tục duy trì quan hệ giám hộ sẽ là sự ràng buộc không cần thiết, thậm chí là hạn chế với người đó. Chính vì thế vấn đề chấm dứt giám hộ được đặt ra. Bên cạnh đó vì lí do khách quan (người giám hộ chết) thì giám hộ không còn ý nghĩa.
Các trường hợp chấm dứt giám hộ:
+ Người giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: nghĩa là người giám hộ mà chưa thành niên thì việc giám hộ chám dứt khi người đó đã thành niên (đủ từ 18 tuổi trở lên) nếu người giám hộ là người mất năng lực thì việc giám hộ sẽ chấm dứt khi người đó chữa khỏi bệnh, có năng lực đẻ nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
+ Người giám hộ chết: hiện nay thì pháp luật chưa quy định trường hợp người giám hộ chết theo tự nhiên hay chết theo pháp luật(bị Tòa án tuyên bố chết)
Trường hợp chết theo tự nhiên thì chấm dứt việc giám hộ là điều đương nhiên.
Tuy nhiên trường hợp chết theo pháp luật thì có việc áp dung không thống nhất. Có quan điểm cho rằng trường hợp này cũng sẽ được áp dụng như trường hợp chết tự nhiên. Tuy nhiên quan điểm khác cho rằng quy định như vậy là chưa thật chính xác vì nếu người bị tòa tuyên là chết đó nếu trở về vì vậy hậu quả của trường hợp này sẽ phải áp dụng theo quy định tại Điều 82 BLDS.
+ Người được giám hộ được nhận làm con nuôi: khi người được giám hộ được nhận làm con nuôi thì việc giám hộ sẽ chấm dứt và người đó được giao cho cha, mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc, trông nom, giáo dục…So với quy định tại Bộ luật năm 1995 thì quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự 2005 bổ sung thêm quy định tại khoản 4 về việc giám hộ chấm dứt khi người được giám hộ được nhận làm con nuôi nhằm phù hợp hơn, với quy định về con nuôi trong luật hôn nhân và gia đình.
Hậu quả của chấm dứt giám hộ:
- Khi việc giám hộ chấm dứt thì trong thời hạn 3 tháng, kể từ thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người được giám hộ hoặc với cha, mẹ của người được giám hộ.
Trong trường hợp người được giám hộ chết thì trong thời hạn 3 tháng, kể từ thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người thừa kế của người được giám hộ; nếu hết thời hạn đó mà chưa xác định được người thừa kế thì người giám hộ tiếp tục quản lí tài sản của người được giám hộ cho đến khi tài sản được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế và thông báo cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được giám hộ cư trú.
- Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ được người giám hộ thực hiện như sau:
+ Chuyển cho người được giám hộ khi người này đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
+ Chuyển cho cha, mẹ của người được giám hộ trong trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 điều 72 của bộ luật này.
+ Chuyển cho người thừ kế của người được giám hộ khi người được giám hộ chết.
c. Thủ tục đăng ký thay đổi, chấm dứt giám hộ
Đăng kí thay đổi, chấm dứt việc giám hộ là cơ sở xác định chấm dứt tư cách pháp lí của người giám hộ đối với người được giám hộ.
- Thẩm quyền đăng kí chấm dứt, thay dổi người giám hộ
Việc thay đổi người giám hộ, chấm dứt việc giám hộ phải được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. UBND cấp xã nơi đã đăng kí việc giám hộ là cơ quan có thẩm quyền thay đổi, chấm dứ việc giám hộ.
- Thủ tục đăng kí, thay đổi, chấm dứt việc giám hộ
Người yêu cầu chấm dứt việc giám hộ phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định), quyết định công nhận việc giám hộ đã cấp trước đây và xuất trình các giấy tờ cần thiết để chứng minh đủ điều kiện chấm dứt việc giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Trong trường hợp người được giám hộ có tài sản riêng, đã được lập thành danh mục khi đăng kí giám hộ, thì người yêu cầu chấm dứt việc giám hộ sẽ phải nộp danh mục tài sản đó và danh mục tài sản hiện tại của người được giám hộ.
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ các giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy yêu cầu chấm dứt việc giám hộ là phù hợp với quy định của pháp luật và không có tranh chấp thì cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào Quyết định công nhận chấm dứt việc giám hộ, đồng thời ghi chú chấm dứt việc giám hộ vào sổ đã đăng kí giám hộ trước đây.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã kí và cấp cho người yêu cầu chấm dứt một bản chính Quyết định công nhận chấm dứt việc giám hộ. Bản sao Quyết định công nhận chấm dứt việc giám hộ được cấp theo yêu cầu của đương sự.
Trong trường hợp người giám hộ yêu cầu được thay đổi giám hộ và có người khác có đủ điều kiện nhận làm giám hộ, thì các bên làm thủ tục đăng kí chấm dứt việc giám hộ cũ và đăng kí việc giám hộ mới theo quy định tại mục này.
II. Thực tiễn áp dụng
Bộ luật dân sự Việt Nam không ngừng hoàn thiện phần giám hộ. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều trường hợp luật dân sự và luật hôn nhân và gia đình không thống nhất, gây khó khăn trong việc áp dụng.
Ví dụ như một vụ tranh chấp thừa kế mà TAND TP.HCM thụ lý hiện đang bị ách lại vì chính quyền địa phương chưa thể cử được người giám hộ cho một người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.Vào tháng 10 năm 2010, TAND TP.HCM thụ lý vụ tranh chấp thừa kế mà ông T. là bị đơn. Ông H. ở Việt Nam và bốn người em khác ở nước ngoài được tòa xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trước đó, ông H. từng bị TAND TP tuyên bố bị mất năng lực hành vi dân sự. Theo luật, các giao dịch dân sự của ông phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện nên ngày 8-3-2010, TAND TP.HCM có công văn gửi UBND phường 4, quận 3 yêu cầu UBND phường cử người giám hộ cho ông H. Theo công văn trên, ông H. và ông T. là anh em ruột, ở cùng một nhà nhưng ông T. không phải là người giám hộ đương nhiên cho ông H. Do ông T. có đơn tự nguyện làm người giám hộ cho ông H. nên căn cứ vào Điều 63 Bộ luật Dân sự, tòa đề nghị UBND phường 4 có văn bản cử ông T. làm người đại diện theo pháp luật cho ông H. để giải quyết vụ kiện. Công văn của tòa cũng nêu rõ nếu UBND phường 4 không thực hiện được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho tòa biết.
Từ đó đến nay đã hai tháng nhưng UBND phường 4 vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của tòa. Theo bà Trần Ngọc Thu, Chủ tịch UBND phường 4, Điều 63 Bộ luật Dân sự quy định: Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên thì UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám hộ. Nếu hiểu theo tinh thần của điều luật thì UBND phường chỉ cần ra văn bản cử ông T. làm người giám hộ là xong mà không cần thông qua các anh em của ông T. Tuy nhiên, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 lại quy định: Trong trường hợp anh, chị, em ruột cần được giám hộ thì anh, chị, em đã thành niên có năng lực hành vi dân sự thỏa thuận cử một người trong số họ có đủ điều kiện làm người giám hộ. Như vậy, nếu hiểu theo tinh thần của điều luật thì UBND phường chỉ có thể ra văn bản cử ông T. làm người giám hộ một khi các anh em của ông T. (kể cả những người đang ở nước ngoài) có văn bản đồng ý. Theo bà Thu, trước đây, Phòng Tư pháp quận 3 từng hướng dẫn nghiệp vụ một vụ tương tự cho phường khác là phải áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình. Do đó, dù đã bị đương sự khiếu nại vì không làm theo yêu cầu của tòa nhưng UBND phường 4 không thể làm khác. Nếu phường đồng ý cử ông T. làm người giám hộ mà không thông qua các anh em khác của ông, lỡ mai kia họ về nước, dựa vào Luật Hôn nhân và Gia đình khiếu nại thì phường biết trả lời sao. Vì vậy, phường đành phải chờ ông T. nhận được sự đồng ý của tất cả anh em mới có thể trả lời cho tòa biết là có cử ông T. làm người giám hộ được hay không.
Vấn đề đặt ra ở đây là nên áp dụng luật hôn nhân và gia đình hay luật dân sự? Năm 2006, TAND quận 3 thụ lý một vụ tranh chấp sang nhượng nhà của ông B. Ông này trước đó được bệnh viện tâm thần xác định bị bệnh hoang tưởng, không có khả năng chịu trách nhiệm về năng lực hành vi nên TAND quận 3 có công văn yêu cầu UBND phường 14, quận 3 cử người giám hộ cho ông theo Điều 63 Bộ luật Dân sự. UBND phường 14 xin ý kiến của UBND quận 3. Ngay sau đó, UBND quận có công văn cho rằng TAND quận căn cứ vào Điều 63 Bộ luật Dân sự để đề nghị UBND phường 14 cử người giám hộ cho ông B. là chưa đúng. Ông B. còn ba người anh ruột nên cần phải căn cứ vào Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình để giải quyết. Nghĩa là các anh em của ông B. phải thỏa thuận cử một người ra làm giám hộ cho ông B.
Như vậy, trong tình huống này, luật hôn nhân và gia đình và luật dân sự còn chưa thống nhất với nhau. Giải quyết những tình huống như trên mất rất nhiều thời gian và nhiều khi không giải quyết được. Theo ý kiến của luật sư Nguyễn Văn Hậu, Đoàn Luật sư TP.HCM, Điều 79 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định “khi trong gia đình có người cần được giám hộ thì việc giám hộ được thực hiện theo các quy định về giám hộ của Bộ luật Dân sự và luật này”. Điều đó có nghĩa là cả Bộ luật Dân sự cùng Luật Hôn nhân và Gia đình sẽ được áp dụng trong trường hợp trên. Mà Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình không quy định cụ thể về việc không có giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự trong khi Điều 63 Bộ luật Dân sự lại quy định rất rõ. Do đó, UBND phường 4 hoàn toàn có quyền căn cứ vào Điều 63 Bộ luật Dân sự để cử người giám hộ cho ông H.
Một bất cập khác xảy ra trong ví dụ dưới đây là vấn đề người giám hộ cho người bị mắc bệnh tâm thần. Theo điều 62 BLDS thì nếu vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ. Trong trường hợp của chị chị NTV, chị đã nộp đơn ra TAND TP.HCM xin ly hôn với người chồng đang mắc bệnh tâm thần. Trong đơn, chị V. trình bày rằng vợ chồng chị kết hôn từ năm 2005. Ba năm sau, trong một vụ tai nạn giao thông, chồng chị bị thương nặng ở đầu, từ đó mất ý thức, phải nhập viện điều trị tâm thần dài hạn. Hiện nay đời sống hôn nhân của chị là không thể duy trì nên chị muốn được ly hôn để ổn định lại cuộc sống sau này…Thụ lý, TAND TP đang băn khoăn về hướng giải quyết. Có ý kiến nói tòa nên yêu cầu chị V. tiến hành làm thủ tục tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự vì bị bệnh tâm thần. Khi yêu cầu này được tòa án có thẩm quyền chấp nhận, TAND TP sẽ tiến hành giải quyết vụ ly hôn của chị. Lúc này, chị V. vừa là nguyên đơn, đồng thời cũng vừa là người đại diện theo pháp luật cho bị đơn – chồng chị. Ý kiến này đã vấp phải sự phản đối bởi lẽ nếu làm như vậy, chị V. sẽ được tự ý quyết định tất tần tật mọi thứ, kể cả tài sản và con chung. Điều này không đảm bảo công bằng, có khả năng gây thiệt thòi cho người chồng đang bị tâm thần, vốn có quyền lợi đối lập với chị trong vụ ly hôn. Giả sử nếu mai này người chồng khỏi bệnh thì sao? Theo luật, người mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình được xem là người mất năng lực hành vi dân sự (trên cơ sở phán quyết của tòa theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan). Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự do người giám hộ xác lập, thực hiện. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại tòa án cũng do người giám hộ thực hiện. Luật cũng quy định trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ và ngược lại. Như vậy, dựa vào các quy định này, chị V. sẽ làm thủ tục yêu cầu tòa tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự. Sau đó, chị sẽ trở thành người giám hộ đương nhiên của chồng và sẽ tham gia vụ ly hôn với cả hai tư cách nguyên đơn và đại diện bị đơn. Tuy nhiên, ngoài việc không đảm bảo công bằng thì còn một điểm khác chưa hợp lý. Ly hôn là một trong các quyền nhân thân. Với quyền nhân thân, đương sự phải tự mình thực hiện, không ai có thể thay thế. Tức không thể để vợ chồng làm người giám hộ cho nhau trong vụ ly hôn của chính họ. Đây là một chuyện khá nhức đầu với các tòa. Nếu linh động để vợ hay chồng làm người giám hộ cho nhau và tiến hành giải quyết ly hôn thì không chặt chẽ về mặt pháp luật. Nhưng nếu cứ “ngâm án” mãi cũng không được vì một người xin ly hôn với người bạn đời bị bệnh tâm thần để lo cho tương lai, xét ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn học kì dân sự modul 1 8đ.doc