Tiểu luận Giao dịch dân sự trong pháp luật hiện hành

MỤC LỤC:

A.LỜI MỞ ĐẦU.

 

B.NỘI DUNG.

I.GIAO DỊCH DÂN SỰ.

1.Giao dịch dân sự là gì?

1.1.Khái niệm.

1.2.Mục đích của giao dịch dân sự.

1.3.Hình thức giao dịch dân sự.

2.Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.

2.1.Điều kiện về chủ thể.

2.2.Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự.

2.3.Điều kiện về sự tự nguyện khi xác lập và thực hiện giao dịch.

2.4.Điều kiện về hình thức trong giao dịch dân sự.

3.Phân loại giao dịch dân sự.

4.Giao dịch dân sự có điều kiện.

5.Giao dịch dân sự vô hiệu.

II.CÁC LOẠI GIAO DỊCH DÂN SỰ.

1.Hợp đồng dân sự.

1.1.Khái niệm.

1.2.Phân loại hợp đồng dân sự.

1.3.Nội dung của hợp đồng dân sự.

1.4.Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

1.5.Giải thích giao dịch dân sự.

1.6.Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự.

2.Hành vi pháp lý đơn phương.

 

C.KẾT LUẬN.

 

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10339 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giao dịch dân sự trong pháp luật hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự, là cơ sở xác định việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự đó có hiệu lực pháp lý hay không. Mục đích của giao dịch dân sự khác với động cơ xác lập giao dịch. Động cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch, nếu động cơ không đạt được không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch. Động cơ của giao dịch không mang tính chất pháp lý. Mục đích luôn luôn được xác định còn động cơ thì không. Ví dụ: Trong giao dịch dân sự về mua bán nhà, mục đích của người mua nhà là quyền sở hữu nhà, còn động cơ có thể để ở, cho thuê, hoặc bán lại… Tuy nhiên, động cơ của giao dịch có thể được các bên thỏa thuận và mang ý nghĩa pháp lý. Trong trường hợp này động cơ đã trở thành điều khoản của giao dịch, là một bộ phận cấu thành của giao dịch đó. Giao dịch dân sự là căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lý quan trọng nhất trong giao dịch dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch dân sự (hợp đồng), các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh các nhu cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình. 1.3.Hình thức giao dịch dân sự. Đặc điểm chung của tất cả các giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Sự thống nhất này phải được thể hiện đươi một hình thức nhất định phù hợp với ý chí đích thực của các bên. Hình thức của giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định của chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Thông qua hình thức biểu hiện này mà các bên đối tác và người thứ ba có thể biết được nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là căn cứ xác nhận các quan hệ đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm dân sự của mỗi chủ thể tham gia giao dịch khi có hành vi vi phạm xảy ra. Có nhiều hình thức khác nhau: - Hình thức của giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Hình thức này thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau khi thực hiện ( mua bán trao tay), hoặc giữa các chủ thể có quan hệ thân thiết, tin cậy. Tuy nhiên, có những giao dịch dân sự khi thể hiện bằng lời nói phải tuân thủ những điều kiện do pháp luật quy định mới có giá trị (VD: di chúc miệng). - Hình thức của giao dịch dân sự được thể hiện bằng văn bản. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng văn bản là việc các bên lập văn bản thỏa thuận các điều khoản của giao dịch và cũng ký tên vào văn bản đó. Hình thức này có giá trị làm chứng cứ cao hơn hình thức thể hiện bằng lời nói trong giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong hình thức thể hiện giao dịch dân sự dưới dạng văn bản có thể phân chia thành 2 loại: văn bản thông thường và văn bản có chứng nhận công chứng của Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Nếu pháp luật không quy định, các bên có thể thỏa thuận với nhau việc lập văn bản dưới dạng bất kỳ hình thức nào. Hình thức giao dịch có tính chất bắt buộc đối với các bên khi tham gia giao dịch dân sự chủ yếu được áp dụng đối với loại tài sản có giá trị lớn ( VD: mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất…). Hình thức của giao dịch dân sự bằng văn bản có công chứng của Nhà nước chứng thực hoặc Ủy ban nhân dân có thẩm quyền chứng thực giúp cho cơ quan nhà nước quản lý, kiểm soát được 1 số giao dịch dân sự, làm cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch. Hình thức của giao dịch dân sự là căn cứ để xác định điều kiện hợp pháp của giao dịch dân sự. Khi các bên không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định thì giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu. 2.Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Trong một Nhà nước, một xã hội, sự tự do thực hiện các giao dịch dân sự được thừa nhận trong một mức độ nhất định. Nhà nước không can thiệp sâu vào việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự của các chủ thể. Tuy nhiên, để quản lý xã hội trong một thể thống nhất, bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi ích trong xã hội, Nhà nước đưa ra những chuẩn mực nhất định để bắt buộc các chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải tuân theo. Do vậy, Điều 122 BLDS 2005 quy định cụ thể các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đương nhiên hoặc có thể bị coi là vô hiệu. 2.1.Điều kiện về chủ thể. Bao gồm các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Đó là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Đối với chủ thể của giao dịch dân sự là cá nhân. Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và sự bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Chỉ có những người có năng lực hành vi dân sự mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của mình để họ có thể tự xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các giao dịch dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của mỗi cá nhân được pháp luật công nhận ở từng độ tuổi nhất định, qua đó có thể đánh giá việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự của cá nhân đó có hợp pháp hay không (từ Điều 17 đến 23 BLDS 2005). + Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi, truyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự. + Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. + Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý…) + Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không được phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Đối với cá nhân là người nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 762 BLDS 2005 năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân. Tuy nhiên, khi xác lập và thực hiện giao dịch dân sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người nước ngoài phải tuân theo quy định của Việt Nam về việc xác lập và thực hiện đối với các hành vi dân sự đó. Trong một số trường hợp, người nước ngoài còn bị hạn chế xác lập và thực hiện một số hành vi giao dịch dân sự. Đối với các chủ thể khác ( pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác). Các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ ( đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền). Người đại diện của pháp nhân bao gồm người đại diện theo pháp luật hoặc của người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ pháp luật dân sự. Người đại diện của hộ gia đình là chủ hộ được xác lập những diao dịch dân sự vì lợi ích chung của chủ hộ gia đình. Chủ hộ có thể ủy quyền cho các thành viên khác đã thành niên trong gia đình đại diện cho hộ gia đình thực hiện các giao dịch dân sự. Người đại diện cho tổ hợp tác là tổ trưởng do các thành viên cử ra được xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự liên quan tới hoạt động của sản xuất, kinh doanh của tổ, được xác định trong hợp đồng hợp tác. Tổ trưởng tổ hợp tác cũng có quyền ủy quyền cho các thành viên khác thực hiện các giao dịch dân sự. Người đại diện cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thực hiện các giao dịch dân sự làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định. 2.2.Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự. Thực hiện giao dịch dân sự, chủ thể có nhằm đạt đến những mục đích khác nhau. Để đạt được những mục đích này, các quyền và nghĩa vụ (nội dung của giao dịch) phải được xác lập. Động cơ, mục đích cũng như nội dung của giao dịch dân sự do các chủ thể xác định, tuy nhiên trên tinh thần đáp ứng lợi ích của chủ thể nhưng không làm ảnh hưởng tới lợi ích chung, pháp luật quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức pháp luật”. Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Nội dung của giao dịch là tổng hợp các điều khoản, cam kết trong giao dịch quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm những điều mà pháp luật cấm không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và của xã hội. Đối tượng của giao dịch phải là vật, quyền tài sản được phép giao dịch; phải tuân thủ các điều kiện, trình tự, thủ tục, nội dung của từng giao dịch dân sự đó. Có những giao dịch dân sự mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội nhưng nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật và ngược lại. Tuy nhiên, dù là mục đích hay nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì những giao dịch đó vẫn bị coi là vô hiệu. 2.3.Điều kiện về sự tự nguyện khi xác lập và thực hiện giao dịch. Do bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí, nên người tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện trong việc xác lập ý chí và bày tỏ ý chí của mình. Trong giao dich dân sự các chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được ép buộc, cấm đoán, cưỡng ép đe dọa bên nào. Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự. Điều kiện sự tự nguyện của các bên tham gia giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trog việc xem xét, đánh giá giao dịch dân sự có hợp pháp hay không. Những trường hợp sau đây chủ thể không có sự tự nguyện khi tham gia giao dịch dân sự: - Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo. Sự biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức nhất định là sự biểu hiện của tự nguyện của chủ thể. Nhưng trong nhiều trường hợp bản thân chủ thể hoàn toàn kiểm soát được sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài, không bị tác động bởi bất cứ yếu tố khách quan nào nhưng cũng không được pháp luật thừa nhận, đó chính là giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo. Có thể hiểu giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo là giao dịch dân sự được xác lập để nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trên cơ sở xác định mục đích của việc xác lập giao dịch giả tạo, Điều 129 BLDS 2005 đã phân chia giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo thành hai trường hợp: + Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch khác. + Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. BLDS 2005 cũng như BLDS 1995 chỉ đề cập đến giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo (ít nhất cũng có một giao dịch đích thực). Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp một giao dịch dân sự được thể hiện ra bên ngoài nhưng hoàn toàn không có thực và cũng không nhằm che giấu một giao dịch nào cả. Đây chính là giao dịch dân sự được xác lập bởi sự tưởng tượng. - Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn. Tham gia giao dịch, chủ thể hoàn toàn có thể chủ động trong việc nhận thức về đối tượng, mục đích, điều khoản… của giao dịch nên xác định giao dịch dân sự với nhận thức đó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bản thân chủ thể lại nhận thức không đúng về đối tượng, nội dung… của giao dịch mà mình hướng tới nên xác lập giao dịch đó. Trường hợp này bản thân người xác lập giao dịch do sự hình dung sai của mình có sự nhầm lẫn. Điều 131 BLDS 2005 đề cập đến sự nhầm lẫn về nội dung của giao dịch. Tuy nhiên, bên cạnh sự nhầm lẫn về nội dung của giao dịch còn có thể có sự nhầm lẫn về chủ thể xác lập giao dịch. - Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối (Điều 132 BLDS 2005). Hành vi lừa dối có thể được thực hiện bởi một bên trong giao dịch, nhưng cũng có thể được thực hiện bởi người thứ ba với lỗi cố ý. Mục đích là làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch. - Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa. ( Điều 132 BLDS 2005) Là hành vi đe dọa của một bên và có thể là hành vi đe dọa của người thứ ba với mục đích xác lập giao dịch. Để có thể xác định là giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa, sự đe dọa phải được đáp ứng các yêu cầu sau: + Bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích là buộc chủ thể phía bên kia phải xác lập giao dịch dân sự với mình hoặc xác lập giao dịch dân sự với chủ thể mà bản thân bên đe dạo mong muốn. + Hành vi đe dọa nhằm làm cho bên kia “sợ hãi”, tức là bản thân bên bị đe dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không thể có một sự lựa chọn nào khác. + Chủ thể đe dọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng cũng có thể là người khác. BLDS 2005 những người này là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị đe dọa. + Hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà hành vi đó hướng tới, tức là bên bị đe dọa mới chỉ có “sợ hãi” về hậu quả của sự đe dọa có thể xảy ra. BLDS 2005 cũng không đề cập đến trường hợp giao dịch dân sự được xác lập bởi sự cưỡng bức. Đối với giao dịch được xác lập bởi sự đe dọa thì hậu quả của sự đe dọa chưa xảy ra ( chủ thể bị tác động về mặt tinh thần), còn trong giao dịch dân sự được xác lập bởi sự cưỡng bức đã có hậu quả thực tế và bên bị cưỡng bức phải xác lập giao dịch nếu không thì hậu quả của sự cưỡng bức này có thể tiếp tục xảy ra (chủ thể bị tác động về mặt thể xác). - Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. 2.4.Điều kiện về hình thức trong giao dịch dân sự. Nếu pháp luật không quy định, giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản, văn bản có chứng nhận cảu công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Độ tin cậy của giao dịch được đảm bảo từ thấp đến cao theo trật tự trên, và hình thức của giao dịch do các bên lựa chọn để xác lập giao dịch là tùy thuộc vào tính chất của giao dịch các bên. Tuy nhiên trong một số giao dịch dân sự, pháp luật quy định hình thức bắt buộc đối với loại giao dịch dân sự đó thì các bên phải tuân theo. Việc tuân thủ điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự mà pháp luật quy định có thể dẫn tới giao dịch dân sự vô hiệu. 3.Phân loại giao dịch dân sự. Các giao dịch dân sự đều có một điểm chung là ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Căn cứ vào các bên tham gia vào giao dịch có thể phân biệt giao dịch dân sự thành hai loại: Hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương. Ngoài ra còn có nhiều tiêu chí khác để phân loại giao dịch dân sự. - Căn cứ vào sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong việc xác lập giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự được chia thành giao dịch dân sự được xác lập theo ý chí cảu một phía chủ thể (hành vi pháp lý đơn phương) và giao dịch dân sự được xác lập theo ý chí của nhiều chủ thể (hợp đồng). - Căn cứ vào sự tự nguyện của chủ thể tham gia giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự được chia thành giao dịch dân sự được phát sinh theo ý chí của chủ thể tham gia giao dịch và giao dịch dân sự được phát sinh theo ý chí của Nhà nước. - Nếu căn cứ vào hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự được xác lập thì giao dịch dân sự được chia thành giao dịch dân sự có hậu quả làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, giao dịch dân sự có hậu quả làm thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự và giao dịch dân sự có hậu quả và làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. - Căn cứ vào hình thức thể hiện của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự được thể hiện dưới hình thức lời nói, giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức văn bản và giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức hành vi cụ thể. 4.Giao dịch dân sự có điều kiện. Giao dịch có điều kiện là giao dịch mà hiệu lực của nó phát sinh hoặc hủy bỏ phụ thuộc vào sự kiện nhất định. Khi sự kiện đó xảy ra thì giao dịch phát sinh hoặc hủy bỏ. Các sự kiện đó dự liệu khả năng xảy ra nhưng không chắc chắn xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên sự kiện được coi là điều kiện phải là sự kiện xảy ra xảy ra một cách tự nhiên. Nếu một trong các chủ thể của giao dịch có hành vi ngăn cản không cho các sự kiện đó xảy ra, hoặc có hành vi ngăn cản thúc đẩy cho sự kiện đó xảy ra sớm hơn để không thực hiện nghĩa vụ thì cũng không làm phát sinh hoặc chấm dứt hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự có thể được xác lập với điều kiện làm phát sinh hoặc điều kiện hủy bỏ. Giao dịch có điều kiện phát sinh là giao dịch đã được xác lập nhưng chỉ phát sinh hiệu lực khi có sự kiện được coi là điều kiện xảy ra. Giao dịch có điều kiện hủy bỏ là giao dịch được xác lập và phát sinh hiệu lực nhưng khi có sự kiện là điều kiện xảy ra thì giao dịch bị hủy bỏ. 5.Giao dịch dân sự vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thuộc thẩm quyền của Tòa án thể hiện bằng một bản án hoặc một quyết định tuyên bố một giao dịch dân sự là vô hiệu cùng những hậu quả pháp lý của giao dịch đó. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào Tòa án cũng tuyên bố giao dịch dân sự vi phạm các điệu kiện trên thì vô hiệu. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, vào một giao dịch đã được xác lập, Tòa án sẽ đưa ra những quyết định phù hợp với thực tế, có thể là tuyên bố vô hiệu hoặc có thể yêu cầu các bên thực hiện đúng những quy định của pháp luật. Tòa án chỉ xem xét và tuyên bố giao dịch vô hiệu khi có yêu cầu của các bên hoặc điều kiện của họ, hoặc của Viện kiểm sát, tổ chức xã hội để bảo vệ lợi ích chung. Căn cứ vào mức độ vi phạm của các chủ thể, đối tượng mà các bên xâm phạm khi xác lập giao dịch có thể phân giao dịch vô hiệu thành giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối. Thông thường, các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là các giao dịch dân sự vi phạm lợi ích chung của xã hội như: vi phạm vào các điều mà pháp luật cấm và trái đạo đức xã hội (VD: buôn bán, vận chuyển chất ma túy…). Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối đương nhiên không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các bên tham gia giao dịch, những người có quyền và lợi ích liên quan, Viện kiểm sát nhân dân, tổ chức xã hội đều có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu để bảo vệ lợi ích chung. Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thường có mục đích nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân. Trong trường hợp này chỉ khi các bên hoặc những người đại diện của họ yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu, Tòa án mới xem xét và quyết định Căn cứ vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự có thể phân chia giao dịch dân sự thành bốn loại: - Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. - Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm hình thức. - Giao dịch dân sự vô hiệu do không có sự tự nguyện của người tham gia giao dịch. - Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập, thực hiện không đủ khả năng hành vi dân sự. Những quy định về tính vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương trong giao dịch dân sự; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao dịch dân sự. II.CÁC LOẠI GIAO DỊCH DÂN SỰ. 1.Hợp đồng dân sự. 1.1.Khái niệm. “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự” (Điều 388 BLDS 2005). Trong quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như trong cuộc sống hàng ngày một yếu tố không thể thiếu được là phải có sự giao dịch dân sự, đó là sự chuyển dịch tài sản, quyền tài sản hoặc thực hiện một dịch vụ nào đó giữa người này với người khác, giữa tổ chức này với tổ chức khác, giữa pháp nhân này với pháp nhân khác. Sự giao lưu dân sự được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa các bên, trên cơ sở đó pháp luật buộc các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đó. Sự thỏa thuận giữa các bên được gọi là hợp đồng. Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí giữa các bên cùng nhằm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, thể hiện quan hệ tài sản và được ký kết căn cứ trên những nguyên tắc cơ bản. Khi nói đến khái niệm hợp đồng, điều cơ bản đầu tiên phải đề cập đến đó là sự thỏa thuận ý chí của các bên. Hợp đồng được hình thành khi các bên đã đạt được một sự nhất trí trên cơ sở sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên. Sự thỏa thuận ấy phải được biểu hiện ra bên ngoài dưới những hình thức nhất định. Hợp đồng có thể ký kết bằng hành vi, bằng miệng, bằng văn bản, bằng đối thoại, bằng Internet. Các bên trong hợp đồng có quyền biểu lộ ý chí của họ, nhưng hợp đồng chỉ được thiết lập khi có sự thỏa thuận của các bên, tức là khi ký kết hợp đồng các đương sự phải có chung một ý chí. Chính sự gặp gỡ giữa hai hay nhiều ý chí đã tạo nên hợp đồng. Sự thỏa thuận này trước hết liên quan đến bản chất của hợp đồng, nếu một người muốn bán tài sản mà bên kia lại tưởng rằng đó là sự tặng cho thì sẽ không có hợp đồng. Đồng thời sự thỏa thuận này phải liên quan đến đối tượng của hợp đồng bởi một hợp đồng không thể được thiết lập nếu hai bên không hướng tới chung một đối tượng. Mặt khác vì hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí của các bên nên nó chỉ được thiết lập khi hai đương sự cùng chấp nhận hoặc cùng ưng thuận. Một hợp đồng không thể được thiết lập nếu một trong hai bên để tùy cho bên kia ấn định các điều kiện của hợp đồng vì trong trường hợp này sẽ không có sự thỏa thuận ý chí. Tuy sự gặp gỡ của hai ý chí không nhất thiết phải xảy ra cùng lúc nhưng chỉ khi nào có cả sự ưng thuận của tất cả các bên tham gia thì khi đó hợp đồng mới được thiết lập. Hợp đồng có bản chất là sự ưng thuận, tuy nhiên không phải mọi sự thỏa thuận đều có thể trở thành hợp đồng bởi sự thỏa thuận của hai ý chí về cùng một đối tượng chưa đủ để tạo lập hợp đồng. Mục đích cơ bản để các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng là đạt được những ý định, mong muốn của mình mà có được nó thì buộc phải xây dựng những quan hệ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Do đó hiệu lực của hợp đồng nói chung chính là việc tạo lập, biến đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ. Những thỏa thuận không đem lại cho các bên quyền và nghĩa vụ thì không thể coi là hợp đồng. 1.2.Phân loại hợp đồng dân sự. Trong BLDS 2005 Điều 406 có định nghĩa một số hợp đồng cơ bản. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều loại hợp đồng mà chúng ta thường gặp, ta có thể dựa vào các căn cứ khác nhau để phân loại hợp đồng sau đây: - Nếu dựa vào hình thức của hợp đồng, thì hợp đồng dân sự được phân thành hợp đồng miệng, hợp đồng văn bản, hợp đồng có công chứng nhận, hợp đồng mẫu… - Nếu dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên, thì hợp đồng được phân thành hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. - Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa vụ. Hay nói cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đồng song vụ là người vừa có quyền lại vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của loại hợp đồng này, quyền dân sự của bên này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Vì thế, nếu hợp đồng song vụ được giao kết theo hình thức văn bản, thì phải lập nhiều văn bản để mỗi bên giữ một bản hợp đồng. - Hợp đồng đơn vụ là những hợp đồng trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền nhưng không phải thực hiện một nghĩa vụ nào. - Nếu dựa vào tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể, hợp đồng dân sự được phân thành hai loại là hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù. - Nếu dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực, thì hợp đồng dân sự được phân thành hai nhóm: hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế. - Hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thỏa thuận, hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng trong hợp đồng. Hợp đồng có điều kiện là những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc thỏa thuận về nội dung của hợp đồng các bên còn thỏa thuận để xác định về một sự kiện để khi sự kiện đó xảy ra, thì hợp đồng mới có thể thực hiện được hoặc chấm dứt. Ngoài ra còn có hợp đồng vì lợi ích người thứ ba và hợp đồng hỗn hợp. 1.3.Nội dung của hợp đồng dân sự. Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng (Điều 402 BLDS 2005). Trong tất cả các điều khoản quy định trong Luật, có những điều khoản mà ở hợp đồng này các bên không cần thỏa thuận nhưng trong một hợp đồng khác, các bên buộc phải thỏa thuận, thì hợp đồng mới được giao kết. Trong quá trình ký kết các bên còn có thể thỏa thuận để xác định với nhau thêm một số nội dung khác. - Điều khoản cơ bản: các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu của hợp đồng, nó không thể thiếu trong hợp đồng, nếu không có nó thì hợp đồng không thể giao kết được. Tùy theo từng loại hợp đồng mà điều khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm… Ngoài ra, có những điều khoản mà vốn dĩ không phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần thỏ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiao dịch dân sự.doc
Tài liệu liên quan