Tiểu luận Giao dịch dân sự vô hiệu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta gồm năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điểm mới ở đây là đã gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân thành thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời khẳng định đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân. Văn kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực tạo sự yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế phi nhà nước. Sự phát triển

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5700 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giao dịch dân sự vô hiệu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
S vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi hội đủ những điều kiện nhất định: a) Khi có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan và b) Theo quyết định của Tòa án. (Đây là sự khác biệt quan trọng nhất, được coi là một tiêu chí hàng đầu để phân loại một giao dịch vô hiệu thuộc trường hợp vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối khi nghiên cứu nội dung các văn bản quy phạm pháp luật). Thứ hai là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu: Đối với GDDS vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là không hạn chế. Còn đối với các GDDS vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là hai năm kể từ ngày GDDS được xác lập (Điều 136, BLDS 2005). Ở đây có một ngoại lệ là trường hợp giao dịch vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức của giao dịch thuộc nhóm vô hiệu tuyệt đối nhưng theo quy định tại điều 136 BLDS 2005 thì thời hạn yêu cầu tuyên bố GDDS là 2 năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập. Thứ ba là sự khác biệt về hiệu lực pháp lý của giao dịch: GDDS vô hiệu tuyệt đối không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, thậm chí ngay cả trong trường hợp các bên đã tiến hành thực hiện các hành vi theo nội dung cam kết. Bởi lẽ các giao dịch này đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng nên nhà nước không bảo hộ. Còn GDDS vô hiệu tương đối thì được coi là có hiệu lực pháp lý cho đến khi nào bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Quy định này thoạt tiên có thể bị coi là trái với quy định tại khoản 1 Điều 137 BLDS 2005: “GDDS vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập”.Thực chất thì không phải như vậy vì đối với GDDS vô hiệu tương đối, nếu như giao dịch không được coi là có hiệu lực cho đến khi Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì quy định tại khoản 1, Điều 136 BLDS 2005 sẽ chẳng có tác dụng gì bởi lẽ sẽ không có giao dịch nào có được hiệu lực trong khoảng thời hiệu 2 năm. Thứ tư là sự khác biệt về bản chất quyết định của Tòa án: Trong cả hai trường hợp, Tòa án đều có thể đưa ra quyết định tuyên bố GDDS vô hiệu thế nhưng bản chất của hai quyết định này có sự khác biệt cơ bản: Giao dịch dân sự thuộc trường hợp vô hiệu tuyệt đối không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án. Hay nói cách khác nó bị vô hiệu ngay cả khi không có quyết định của Tòa án. Chính vì vậy, quyết định của Tòa án đối với GDDS vô hiệu tuyệt đối không mang tính chất phán xử mà đơn thuần chỉ là một trong nhữnh hình thức công nhận sự vô hiệu của giao dịch dựa trên các cơ sở luật định mà thôi. Đối với GDDS vô hiệu tương đối thì quyết định của Tòa án là cơ sở duy nhất làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Quyết định của Tòa án mang tính chất phán xử. Tòa án tiến hành giải quyết vụ việc khi có đơn yêu cầu của các bên (hoặc đại diện hợp pháp của họ). Bên yêu cầu phải chứng minh trước Tòa các cơ sở của yêu cầu. Ví dụ: Nếu một người yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn thì phải chứng minh trước Tòa sự nhầm lẫn của mình và bên nào có lỗi gây ra sự nhầm lẫn. Thứ năm là sự khác biệt về ý nghĩa của việc tuyên bố GDDS vô hiệu tuyệt đối và GDDS vô hiệu tương đối. Việc tuyên bố giao dịch vô hiệu trong cả hai trường hợp đều có ý nghĩa để áp dụng chế tài cần thiết vào từng giao dịch cụ thể khi giao dịch đó vi phạm vào bất cứ điều kiện nào tại Điều 131 BLDS. Nhưng ngoài ý nghĩa đó, đối với GDDS vô hiệu tương đối, việc Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu còn là một trong những biện pháp bảo vệ quyền dân sự quan trọng. Thực tế những năm gần đây, Tòa án nhân dân tối cao đã tuyên bố rất nhiều GDDS vô hiệu đặc biệt là GDDS vô hiệu tương đối. Điều đó cho thấy biện pháp bảo vệ quyền dân sự dưới hình thức kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu tỏ ra là một biện pháp rất hữu hiệu. Một giao dịch được gọi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp sau: a) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 132 BLDS 2005); b) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 131 BLDS 2005); c) Khi một bên chủ thủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe dọa (Điều 132 BLDS 2005); d) Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005). Một giao dịch được gọi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau: a) Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội (Điều 128 BLDS 2005); b) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba (Điều 129 BLDS 2005); c) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ các quy định bắt buộc của pháp luật (Điều 134 BLDS 2005). 2. Cách phân loại thứ hai: GDDS vô hiệu toàn bộ và GDDS vô hiệu bộ phận. Thứ nhất, GDDS vô hiệu toàn bộ là toàn bộ nội dung của GDDS đó vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một trong các bên tham gia giao dịch đó không có quyền xác lập GDDS. Thứ hai, “GDDS vô hiệu từng phần khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”. (Điều 135 BLDS). Thông thường việc xác định phần giao dịch dân sự vô hiệu không ảnh hưởng đến phần khác dựa vào những tiêu chí sau: - Giao dịch giữa các bên ký kết có phần là GDDS vô hiệu, vì không đáp ứng đủ 4 điều kiện được quy định tại Điều 121 BLDS, nhưng phần còn lại không bị vô hiệu; - Kết cấu tài sản là đối tượng của giao dịch không bị ràng buộc với nhau, - Trong giao dịch, hai phần này thể hiện tách bạch với nhau về các điều khoản của giao dịch như: giá cả, chất lượng, số lượng,…; - Những thỏa thuận trong các phần của giao dịch, tuy có sự ràng buộc với nhau về quyền và nghĩa vụ, nhưng vẫn có thể phân định được. Trong thực tế, khi giải quyết vụ án thông thường, Thẩm phán thường dựa vào ý chí thỏa thuận của các bên, nếu các bên thỏa thuận công nhận một phần giao dịch thì các tiêu chí nêu trên chỉ là tham khảo, trừ tường hợp những thỏa thuận làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác hoặc lợi ích của nhà nước. Ví dụ: Ông A (bên bán ) và ông B (bên mua) tham gia ký kết hợp đồng mua 10 cái tivi nhãn hiệu LCD trong đó có 6 cái 18 inh và 4 cái 24 inh. Nội dung hợp đồng: Địa điểm: nhà ông B; thời gian 10-5-2010. Ngày 10-5-2010, ông A chỉ giao được 6 cái 18 inh, còn 4 cái 24 inh thì mãi 15-10-2010 mới mang đến vì lý do hết hàng. Trong trường hợp này, ông B có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu một phần. III/. Các trường hợp GDDS vô hiệu và thực tiễn việc tuyên bố GDDS vô hiệu. GDDS vô hiệu do mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội Mục đích, nội dung của GDDS là sự thể hiện hành vi có ý thức của con người khi xác lập, thực hiện giao dịch và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Do vậy nó là điều kiện cần và đủ của mọi GDDS hợp pháp. GDDS vô hiệu khi: Thứ nhất, mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm Điều cấm: Những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định (BLDS năm 2005) hoặc đối tượng là tài sản bị nhà nước cấm lưu thông. Ví dụ: kinh doanh vũ khí, chất độc, chất phóng xạ, ma túy, mại dâm, buôn bán trẻ em, thực vật, động vật hoang dã mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia,… Thứ hai, nội dung và mục đích của giao dịch trái đạo đức xã hội Đạo đức xã hội: Những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng (BLDS năm 2005). . Trong dân gian và luật tục coi một số hành vi như mua bán hàng hóa thiếu số lượng, không đảm bảo chất lượng, bán ép giá,… là vi phạm đạo đức; hoặc có thể là trường hợp lừa dối cha mẹ để chiếm đoạt tài sản của cha mẹ. So với BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 đã quy định một cách rõ ràng, cụ thể hơn về quy định GDDS vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Bằng chứng là khoản 1 Điều 137 BLDS năm 1995 chỉ dừng lại ở việc nêu điều kiện GDDS vô hiệu mà không nói rõ về vấn đề thế nào là Điều cấm của pháp luật? Thế nào là đạo đức xã hội? Bên cạnh đó Điều này chỉ đề cập đến nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật , trái đạo đức xã hội thì giao dịch vô hiệu chứ mục đích của giao dịch thì không bị giới hạn gì. Như vậy, về cơ bản BLDS năm 2005 có những điểm điểm tiến bộ rõ rệt, quy định chi tiết và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên trên thực tế, để xác định được mục đích của các chủ thể trong giao dịch không đơn giản bởi lẽ nhiều khi biểu hiện bên ngoài của các chủ thể không phù hợp với ý chí bên trong của các chủ thể, vì bị tác động bởi các yếu tố khách quan. Bên cạnh đó, việc xác định được nội dung và mục đích của giao dịch trái đạo đức xã hội cũng gặp rất nhiều khó khăn, cơ bản là vì khái niệm đạo đức trong giao lưu dân sự rất trừu tượng và là một phạm trù có tính chất co giãn, khó xác định nội hàm cụ thể. Giải quyết vấn đề này, BLDS nước ta cần đề cập một cách cụ thể, chi tiết về nội hàm của khái nhiệm đạo đức, bên cạnh đó cần xác định rõ các trường hợp mà nội dung và mục đích của giao dịch được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội. GDDS vô hiệu do giả tạo. Theo quy định của pháp luật: “Khi các bên xác lập GDDS một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu còn giao dịch che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.” (Điều 129, BLDS 2005). Như vậy việc xác lập giao dịch là nhằm che dấu một mục đích khác của các chủ thể tham gia giao dịch; các bên tham gia giao dịch không có ý định tạo lập quyền, nghĩa vụ pháp lý qua giao dịch này; giao dịch được xác định với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người khác hay đối với xã hội hoặc để che dấu một hành vi nào đó, có thể là hành vi bất hợp pháp và trong giao dịch này, ý chí giả tạo tồn tại ở các chủ thể, tức là có sự thông đồng trước khi xác lập giao dịch giả tạo. Ví dụ: Xác lập hợp đồng tặng cho để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, xác lập hợp đồng gửi giữ để che dấu hợp đồng mua bán nhằm trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước,… Vấn đề đặt ra hiện nay là làm cách nào để xác định giao dịch đó là giả tạo trong khi nó được xác lập trên cở sở sự thống nhất và bày tỏ ý chí của hai bên chủ thể. Dấu hiệu của giao dịch giả tạo lại quá chung chung, rất khó để nhận biết được. Mặt khác pháp luật Việt Nam cũng chưa có các quy định cụ thể về việc này. Để khắc phục hạn chế này, thiết nghĩ các quy định của pháp luật dân sự cần quy định rõ căn cứ cụ thể để xác định một giao dịch giả tạo, tránh việc quy định chung chung vì sẽ gây khó khăn cho Tòa án trong việc tuyên bố giao dịch vô hiệu do giả tạo. 3. GDDS vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Điều 130 BLDS năm 2005 quy định: “Khi GDDS do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”. Về cơ bản quy định tại Điều này không có gì khác so với quy định tại Điều 140 BLDS năm 1995. GDDS là một hình thức cụ thể thể hiện ý chí chủ thể được quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh. Do vậy, muốn quan hệ pháp luật dân sự đó được xác lập, thi hành và công nhận thì phải thông qua hành vi dân sự và hành vi đó phải do người có đủ năng lực hành vi dân sự thực hiện. Người không có năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi không đầy đủ không có đủ điều kiện để thể hiện tự do ý chí. Vì vậy giao dịch của họ phải được xác lập, thực hiện dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khác xác lập, thực hiện. Tuy nhiên giao dịch do người này xác lập không mặc nhiên vô hiệu mà phải có yêu cầu của những người đại diện cho họ. Ví dụ: Các trường hợp giao dịch vô hiệu: Người tham gia giao dịch là người nghiện ma túy, mắc bệnh tâm thần,… Thực tế việc tuyên bố GDDS vô hiệu tại Toà án cho thấy: hiện nay, việc phân biệt, tách bạch được những giao dịch mà người chưa đủ năng lực hành vi dân sự được xác lập với những giao dịch mà họ không được xác lập là vô cùng khó, một mặt là do các quan hệ xã hội rất phức tạp, bên cạnh đó còn do những quy định của pháp luật chưa thực sự cụ thể, các quy định của luật dân sự chưa kịp thời trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt là những quan hệ mới phát sinh. Chính vì vậy, có rất nhiều trường hợp Tòa án vẫn không thể tuyên bố GDDS mặc dù giao dịch đó được xác lập bởi người chưa thành niên. Khắc phục hạn chế này của BLDS năm 2005, thiết nghĩ các nhà làm luật Việt Nam cần quy định cụ thể những trường hợp nào những người chưa thành niên được thiết lập GDDS, tránh sự nhầm lẫn trong việc tuyên bố GDDS vô hiệu. 4. GDDS vô hiệu do bị nhầm lẫn. Điều 131 BLDS quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của GDDS mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu”. Ví dụ: Khi ký kết hợp đồng mua bán chén, ông A là người miền bắc (bên bán), ông B là người miền nam (bên mua), khi hợp đồng được ký kết, ông A giao hàng thì lúc đó hai bên đã phát hiện ra sự nhầm lẫn do sử dụng từ địa phương, hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu nếu một trong hai bên có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại điều 132 của Bộ luật này. Như vậy, BLDS năm 2005 không đưa ra khái niệm về nhầm lẫn nhưng lại khẳng định nhầm lẫn về nội dung chủ yếu là yếu tố có thể đưa đến giao dịch vô hiệu. Chính điều này đã gây ra không ít khó khăn cho Tòa án trong việc tuyên bố GDDS vô hiệu do nhầm lẫn. Bên cạnh đó, căn cứ vào nội dung Điều 131 và thực tiễn, chúng ta có thể thấy không phải bất cứ một nhầm lẫn nào đều dẫn đến việc hủy bỏ giao dịch. Một giao dịch được coi là nhầm lẫn và hủy bỏ khi: Sự nhầm lẫn một bên phải do bên kia gây ra do vô tình, bất cẩn, trình bày sai hoặc bên kia phải biết nhưng im lặng để mặc cho bên đối phương bị nhầm lẫn hoặc có trường hợp thứ hai xảy ra là cả hai bên đều cùng nhầm lẫn, thì sự nhầm lẫn này chỉ liên quan đến sự việc vào thời điểm xác lập giao dịch. Tuy nhiên BLDS của nước ta không quy định về sự nhầm lẫn do cả hai bên nên trong thực tế áp dụng còn nhiều bất cập. Theo ý kiến của em thì nên bổ sung quy định về trường hợp giao dịch do cả hai bên đều nhầm lẫn thì có bị vô hiệu hay không? Việc xác định yếu tố nhầm lẫn để hủy bỏ một GDDS là một vấn đề rất phức tạp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp. Vấn đề xác định người có bị nhầm lẫn hay không phải dựa vào việc xác định thông tin đưa đến có sai hay không, hoặc một số nhân tố khác có khả năng gây nhầm lẫn như: điều kiện, hoàn cảnh, trình độ hiểu biết, cách diễn đạt khi soạn thảo văn bản giao kết, do sự khác biệt nhau về ngôn ngữ,…thậm trí một số trường hợp còn xuất phát từ tâm lý của các chủ thể vào thời điểm tham gia giao dịch dẫn đến sự nhầm lẫn. Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án chỉ cho chúng ta thấy: Việc chứng minh tại thời điểm xác lập một bên bị nhầm lẫn là không hề đơn giản, chính vì vậy, đã có rất nhiều trường hợp Tòa án không thể tuyên bố giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn bởi bên yêu cầu không chứng minh được sự nhầm lẫn của mình tạo thời điểm xác lập giao dịch. 5. GDDS vô hiệu do bị lừa dối. Lừa dối trong GDDS “là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó” (điều 132 BLDS). Như vậy, lừa dối có tính chất quyết định đến một giao dịch, là yếu tố có thể đưa đến vô hiệu của giao dịch đó. Tính chất quyết định làm cho GDDS vô hiệu thể hiện ở chỗ nếu không dùng các mánh khóe làm cho đối phương hiểu sai về sự việc sẽ không xác lập giao dịch lừa dối này, bên kia cố ý làm cho đối phương tham gia vào giao dịch để đạt một lợi ích nào đó. Ví dụ: Hai bên A, B tham giao ký kết hợp đồng mua vật liệu xây dựng, bên bán (bên A) cam kết với bên B là vật liệu đáp ứng mọi yêu cầu về kĩ thuật, đảm bảo chất lượng tốt. Nhưng sau khi ký kết xong hợp đồng, bên B chở vật liệu xây dựng về thì phát hiện vật liệu rất kém chất lượng, không đúng với cam kết nên bên A đã kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Về mặt khách quan thì lừa dối và nhầm lẫn đều có dấu hiệu là người tham gia giao dịch hiểu sai về nội dung của sự việc. Tuy nhiên lừa dối là hậu quả của việc cố ý đưa thông tin sai, xuyên tạc thông tin của bên kia, tức là có sự chủ định của một bên. Còn nhầm lẫn là hậu quả nhận thức sai của bản thân người bị nhầm lẫn do thiếu những kiến thức hoặc điều kiện nhất định. Nhầm lẫn có thể xảy ra đối với cả hai bên tham gia giao dịch còn lừa dối chỉ xảy ra với một bên, trong trường hợp nhiều người cùng tham gia hoặc thông qua một người khác để lừa dối đối phương thì những người này gọi là đồng lõa lừa dối. Việc một bên tạo lập cho bên kia một sự nhầm lẫn hoặc lạm dụng sự nhầm lẫn đã tồn tại ở bên kia để đưa đến việc xác lập giao dịch sẽ được coi là lừa dối. Nhầm lẫn hay lừa dối đều đưa đến hậu quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thỏa thuận không thể hiện đúng ý chí thực của các bên. 6. GDDS vô hiệu do đe dọa. “ Đe dọa trong GDDS được hiểu là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con mình.” (Điều 132 BLDS). Như vậy chúng ta có thể hiểu đe dọa trong GDDS là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch ngoài ý muốn của họ. Để xem xét một GDDS vô hiệu do đe dọa cần xác định hành vi mà đối phương gây nên cho họ có phải là hành vi cố ý hay không và xem xét hành vi đe dọa của một bên có đủ khả năng làm cho đối phương buộc phải thực hiện giao dịch để tránh gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho chính họ hoặc cho những người thân thích của họ. Nếu sự đe dọa mà không nhằm mục đích xâm hại đến lợi ích của người bị đe dọa hoặc người thân của họ thì không thể coi là căn cứ để tuyên bố giao dịch vô hiệu do bị đe dọa được. Ví dụ: Công ty B muốn mua mảnh đất của gia đình ông N để xây dựng nhà máy nhưng ông N không đồng ý, công ty A đe dọa nếu không ký hợp đồng thì tính mạng của ông sẽ không được đảm bảo, nếu ông A có đơn yêu cầu gửi đến Tòa án đòi tuyên bố hợp đồng vô hiệu do đe dọa và chứng minh được sự đe dọa của công ty A thì hợp đồng sẽ được tuyên bố là vô hiệu Thực tế cho thấy việc chứng minh có sự đe dọa trong giao kết hợp đồng là một vấn đề nan giải, nguyên nhân là do sự đe dọa thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau, người bị đe dọa tham gia giao dịch rất khó để chứng minh việc mình bị đe dọa tham gia giao dịch này, bên cạnh đó những quy định của pháp luật về vấn đề này chưa thực sự cụ thể. Bất cập này tồn tại đòi hỏi cần phải bổ sung quy định này về dấu hiệu của một giao dịch vô hiệu do đe dọa, quy định này phải được Tòa án áp dụng một cách linh hoạt để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia xác lập giao dịch. 7. GDDS vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Theo pháp luật dân sự: “Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố GDDS đó là vô hiệu” (Điều 133 BLDS 2005). Trường hợp này chỉ áp dụng cho những người có năng lực hành vi dân sự. Tại thời điểm giao kết người đó bị rơi vào tình trạng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (say rượu, bị thôi miên,..) thì sau đó chính người đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia giao dịch. Hiện nay, việc Tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu trong trường hợp này còn nhiều bất cập, bởi lẽ việc xác định và chứng minh tình trạng của chủ thể khi tham gia giao dịch là rất khó. Vì vậy vẫn còn nhiều giao dịch người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình tham gia nhưng Tòa án không thể tuyên bố vô hiệu vì khó xác minh tình trạng của chủ thể lúc đó. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của người tham gia xác lập giao dịch trong lúc không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình, muốn làm được điều này thì Điều 133 nên bổ sung thêm các cơ sở, căn cứ cụ thể chứng minh trạng thái của chủ thể trong thời điểm tham gia xác lập giao dịch. 8. GDDS vô hiệu do không tuân thủ về hình thức. Hình thức theo nghĩa thông thường “là toàn thể nói chung những gì làm thành bề mặt ngoài của sự vật, cái chứa đựng biểu hiện nội dung”. Đặc điểm chung của GDDS là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể tham gia vào gia vào giao dịch. Sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định phù hợp với ý chí đích thực của các bên như: bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi được ghi nhận dưới những dạng nhất định để biểu lộ sự tồn tại của GDDS. Thông qua hình thức đó, mọi người thấy được các bên tham gia cam kết, thỏa thuận cái gì. Điều 134 BLDS quy định “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”. Trong GDDS, đòi hỏi các bên phải tuân theo đúng hình thức mà pháp luật quy định cho loại giao dịch đó vô hiệu. Trong trường hợp pháp luật không quy định thì các bên có thể tùy nghi lựa chọn. Tuy nhiên không phải tất cả các loại GDDS mà pháp luật đều quy định cho các bên tham gia giao dịch có thể lựa chọn bất cứ hình thức thể hiện nào. Bởi lẽ khách thể của GDDS rất phong phú và đa dạng, mỗi khách thể có đặc trưng và công dụng khác nhau. Để đảm bảo an toàn pháp lý trong giao dịch cũng như bảo vệ trật tự pháp luật và lợi ích công cộng, có những giao dịch phải tuân theo một hình thức nhất định được BLDS quy định như: bằng văn bản, phải có công chứng nhà nước, chứng thực, đăng ký cho phép. Nếu không tuân thủ thì GDDS đó đương nhiên vô hiệu. Ví dụ: Hợp đồng mua bán nhà đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,… bắt buộc phải có công chứng, chứng thực của văn phòng công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ở địa phương. Như vậy, những phân tích trên đây đã chứng minh một điều là hiện nay pháp luật nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập trong việc quy định các trường hợp GDDS vô hiệu, cụ thể là những quy địn của pháp luật dân sự về vấn đề này vẫn còn khá chung chung, chưa thực sự rõ ràng. Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho Tòa án trong việc tuyên bố giao dịch vô hiệu. Từ đó, quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch không được đảm bảo một cách tốt nhất. Để khắc phục điều này, phương hướng cơ bản được đặt ra hiện nay là “không ngừng củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam” để pháp luật dân sự nước ta có thể kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ giữa các chủ thể trong lĩnh vực giao dịch dân sự nói chung. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC TUYÊN BỐ GDDS VÔ HIỆU. I/. Hậu quả pháp lý chung đối với GDDS vô hiệu. Điều 137 BLDS 2005 quy định “1. GDDS vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi GDDS vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quyy định của pháp luật”. GDDS vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập. Về nguyên tắc, BLDS 2005 và BLDS 1995 không có gì thay đổi về việc tuyên bố giao dịch vô hiệu, cụ thể Điều 146 BLDS 1995 quy định “GDDS vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập”. Như vậy, khi giao dịch vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên không được thừa nhận và bảo vệ. Trường hợp giao dịch giữa các bên được xác lập nhưng chưa thực hiện thì không được thực hiện nữa còn trường hợp đang thực hiện thì không được tiếp tục thực hiện, các bên giải quyết hậu quả. Tuy nhiên cũng nhận thấy điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995, đó là việc bên cạnh không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, BLDS 2005 còn quy định GDDS vô hiệu không làm thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Đây là sự bổ sung cần thiết bởi lẽ giao dịch không chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên mà trong nhiều trường hợp nó còn làm thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ. Hoàn trả tài sản. Khoản 2 Điều 137 ghi nhận “khi GDDS vô hiệu thì các bên khôi phục lại trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiao dịch dân sự vô hiệu - một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc