Mục đích hay nói cách khác là những mong muốn, nguyện vọng mà bất kỳ chủ thể nào tham gia giao dịch đều muốn đạt được. Pháp luật luôn tạo điều kiện và giúp đỡ các chủ thể hành động theo ý chí của mình nếu họ không vi phạm vào 1 trong 4 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói trên. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp không tuân thủ các điều kiện đó dẫn đến giao dịch dân sự bị vô hiệu và các chủ thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đây cũng là 2 đặc điểm đặc trưng của giao dịch dân sự vô hiệu:
Vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định: đặc điểm này tuân theo đúng tinh thần của quy định về giao dịch dân sự tại Điều 127 BLDS 2005. Một đặc điểm mang tính quyết định một giao dịch trở nên vô hiệu đó là việc giao dịch đó không tuân thủ đầy đủ 4 điều kiện mà pháp luật đã quy định đối với giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 122 BLDS: điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia giao dịch, điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch, điều kiện về sự tự nguyện của chủ thể và điều kiện về hình thức trong một số trường hợp pháp luật quy định.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9899 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đó. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định rõ pháp nhân chỉ được tham gia các giao dịch dân sự thuộc chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân; hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác theo quy định pháp luật; còn tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác. Nếu tham gia vào các giao dịch dân sự không thuộc lĩnh vực hoạt động đã được pháp luật quy định như trên, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đều coi là đã vi phạm 1 trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, tất nhiên giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu.
2.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự:
“Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó” (Điều 123 BLDS 2005). Trong bất kỳ một giao dịch nào, các bên tham gia đều hướng đến một mục đích nhất định, từ đó sẽ có sự xác lập quyền và nghĩa vụ (tức là nội dung của giao dịch) nhằm hiện thực hóa mục đích đó. Như vậy mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ 2 chiều với nhau.
Mục đích và nội dung là một trong những yếu tố chủ yếu tạo thành một giao dịch dân sự, do vậy điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch cũng là những điều kiện cần thiết cho một giao dịch dân sự hợp pháp: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Việc quy định cụ thể những điều cấm của pháp luật là để đảm bảo lợi ích công cộng và của các chủ thể. Còn đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Tuy nhiên trong thực tế, căn cứ để xác định mục đích và nội dung của giao dịch dân sự trái với đạo đức xã hội khá phức tạp vì đó là những chuẩn mực ứng xử do cộng đồng xã hội tự đặt ra và thừa nhận nó như những quy tắc chung chứ không được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản pháp luật như các điều cấm của pháp luật.
2.3. Điều kiện về ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự:
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí tức là các chủ thể tham gia giao dịch phải có sự tự nguyện. Đây cũng là một trong các điều kiện tiên quyết để 1 giao dịch dân sự có hiệu lực “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”.
Khi tham gia giao dịch dân sự, mỗi chủ thế đều có những nguyện vọng, mong muốn để tạo cơ sở cho việc xác lập các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch đó. Nhưng để có thể đạt được mục đích của giao dịch, các chủ thể phải có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Nếu không thỏa mãn điều này tức là các chủ thể đã vi phạm điều kiện về sự tự nguyện trong giao dịch đồng nghĩa với việc giao dịch dân sự được xác lập sẽ bị coi là vô hiệu. Pháp luật cũng quy định một số trường hợp cụ thể mà giao dịch dân sự được thiết lập không có sự tự nguyện của các chủ thể tham gia giao dịch: giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay giao dịch xác lập vào thời điểm mà người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Tất nhiên, những giao dịch được xác lập bởi những yếu tố kể trên tức là đã vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện của chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu.
2.4. Điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự:
Hình thức giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới 1 hình thức nhất định của các bên tham gia giao dịch. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Như vậy hình thức của giao dịch chỉ trở thành điều kiện có hiệu lực trong một số trường hợp được pháp luật quy định. Đây là điểm mới trong BLDS 2005 so với bộ luật cũ. Tại Điều 131 BLDS 1995 thì hình thức của giao dịch được quy định là một trong 4 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và bất cứ giao dịch nào vi phạm quy định về hình thức đều bị coi là vô hiệu chứ không chỉ trong một số trường hợp như pháp luật hiện hành.
Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không quy định hình thức bắt buộc thì giao dịch đó có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào chẳng hạn như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể:
+ Hình thức miệng (bằng lời nói) : đây được coi là hình thức phổ biến nhất trong xã hội hiện nay dù đó cũng là hình thức có độ xác thực thấp nhất. Hình thức này thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó hoặc giữa các chủ thể có mối quan hệ thân tín, tin cậy.
+ Hình thức văn bản: thể theo sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao dịch hoặc do pháp luật quy định, các bên xác lập giao dịch bằng hình thức văn bản, trên đó phải có chữ ký xác nhận của chủ thể nhằm xác minh sự tham gia giao dịch của các chủ thể. Ngoài ra, có một số trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch bắt buộc phải lập thành văn bản có chứng nhận chứng thực, đăng ký hoặc xin phép mà thông thường là đối với các giao dịch dân sự có đối tượng Nhà nước cần phải kiểm soát trong lưu thông dân sự hoặc đối tượng của giao dịch dân sự có giá trị lớn ( đất đai, nhà cửa…). Trong các trương hợp đó, các chủ thể buộc phải tuân theo quy định của pháp luật về hình thức để có thể đảm bảo giao dịch dân sự phát sinh hiệu lực.
+ Hình thức bằng hành vi: chẳng hạn như rút tiền từ trạm ATM, gọi điện thoại ở bốt công cộng, mua nước bằng máy tự động... Đây cũng là hình thức giản tiện nhất của giao dịch do không cần thiết phải có sự hiện diện của tất cả các bên tham gia giao dịch.
Giao dịch dân sự là một chế định rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Những quy định về giao dịch dân sự là sự cần thiết cấp bách không thể thiếu trong việc điều chỉnh mối quan hệ cơ bản của pháp luật dân sự. Tuy nhiên để có thể bảo đảm trọn vẹn quyền lợi của các chủ thể tham gia giao dịch, pháp luật cũng đề ra các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự hợp pháp, từ đó xác định những giao dịch nào vi phạm các điều kiện đó sẽ bị coi là vô hiệu, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đó. Vậy cụ thể, giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Hậu quả pháp lý của nó ra sao? Nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này sẽ giúp chúng ta có phương hướng để hoàn thiện thêm chế định giao dịch dân sự nói chung.
II. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự vô hiệu:
. Khái niệm:
Nhìn dưới góc độ nghiên cứu khoa học, dù thuật ngữ giao dịch dân sự vô hiệu được sử dụng khác rộng rãi nhưng lại chưa có tài liệu nào nêu ra khái niệm khoa học cụ thể. Trong BLDS nước ta, tại Điều 122 BLDS 2005 có quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, căn cứ vào các quy định này mà xây dựng nên quy định chung về giao dịch dân sự vô hiệu: “ Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”(Điều 127 BLDS 2005). Như vậy các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự làm cơ sở cho việc xác định giao dịch dân sự vô hiệu. Căn cứ vào các quy định trên, ta có thể khái quát: “Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định”.
Bằng việc quy định các điều kiện và một số trường hợp cụ thể dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu, Nhà nước có thể kiểm soát các giao dịch dân sự nhất định để đảm bảo tính ônt định trong giao lưu dân sự. Nhìn chung các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu có một số ý nghĩa sau đây:
Định hướng, tạo khuôn mẫu cho các chủ thể pháp luật dân sự khi tiến hành xác lập giao dịch dân sự phải tuân theo các quy định của pháp luật, không được thảo thuận hoặc thi hành trái pháp luật, trái đạo đức xã hội nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện cho các chủ thể.
Ngăn chặn các loại giao dịch dân sự mà pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội, bảo đảm cho các giao lưu dân sự hợp pháp được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân.
Ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia giao dịch còn bảo đảm quyền lợi cho người thứ 3 ngay tình, bảo đảm tính công bằng khi giải quyết hậu que của giao dịch dân sự vô hiệu.
Là cơ sở pháp lý mang tính nguyên tắc cho các bên tự hòa giải với nhau khi xảy ra tranh chấp hoặc được tòa án áp dụng khi giải quyết các tranh chấp giao dịch dân sự vô hiệu.
1.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu:
Mục đích hay nói cách khác là những mong muốn, nguyện vọng mà bất kỳ chủ thể nào tham gia giao dịch đều muốn đạt được. Pháp luật luôn tạo điều kiện và giúp đỡ các chủ thể hành động theo ý chí của mình nếu họ không vi phạm vào 1 trong 4 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói trên. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp không tuân thủ các điều kiện đó dẫn đến giao dịch dân sự bị vô hiệu và các chủ thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đây cũng là 2 đặc điểm đặc trưng của giao dịch dân sự vô hiệu:
Vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định: đặc điểm này tuân theo đúng tinh thần của quy định về giao dịch dân sự tại Điều 127 BLDS 2005. Một đặc điểm mang tính quyết định một giao dịch trở nên vô hiệu đó là việc giao dịch đó không tuân thủ đầy đủ 4 điều kiện mà pháp luật đã quy định đối với giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 122 BLDS: điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia giao dịch, điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch, điều kiện về sự tự nguyện của chủ thể và điều kiện về hình thức trong một số trường hợp pháp luật quy định.
Các bên tham gia giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: bất kỳ một sự vi phạm nào cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật bằng những chế tài nhất định. Trong giao dịch dân sự cũng vậy, một khi các chủ thể không tuân theo quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì cũng phải chịu hậu quả do việc tuyên bố giao dịch đó đem lại. Cụ thể, khi giao dịch bị tuyên bố là vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch đó. Tính vô hiệu được xác định từ thời điểm các bên xác lập giao dịch( tức là từ khi giao kết hoặc tuyên bố ý chí). Đồng thời, khi giao dịch vô hiệu, các bên quay lại tình trạng ban đầu, hoàn trả những gì đã nhận của nhau. Về mặt lý thuyết thì đây là sự tổn thất của các bên vì không đạt được mục đích ban đầu khi tham gia giao dịch, ngoài ra nếu bên nào có lỗi làm thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Như vậy hậu quả pháp lý có thể và hầu như thường gây bất lợi cho các bên tham gia giao dịch dân sự.
1.3. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu:
Nếu dựa vào các tiêu chí khác nhau sẽ có các cách phân loại giao dịch dân sự khác nhau:
Nếu căn cứ vào sự vô hiệu về nội dung của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành:
Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ: là loại giao dịch mà tất cả các nội dung của giao dịch đều vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự hoặc có 1 phần nội dung của giao dịch vô hiệu nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giao dịch. Giao dịch này không có giá trị pháp lý.
Ví dụ: Giao dịch dân sự có đối tượng giao dịch là tài sản Nhà nước cấm lưu thông như động vật quý hiếm, ma túy…
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần: là giao dịch dân sự chỉ có một số nội dung vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, còn các nội dung khác không vi phạm hoặc có 1 phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại trong giao dịch.
Dựa vào thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành:
Giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu: Đây là giao dịch vi phạm vào một hay một số điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự một cách nghiêm trọng. Các giao dịch dân sự vô hiệu này sẽ không bị hạn chế thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu nên các chủ thể có thể yêu cầu bất kỳ lúc nào, thậm chí nếu không yêu cầu, các giao dịch đó cũng bị xác định là vô hiệu.
Giao dịch dân sự bị hạn chế về thời hiệu: đây là những giao dịch mà mức độ vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự không nghiêm trọng. Sự vi phạm các điều kiện đó chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia giao dịch cho nên các bên có thể yêu cầu hoặc không yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên các loại giao dịch dân sự vô hiệu này sẽ bị giới hạn thời gian yêu cầu, nếu quá thời gian đó các chủ thể của giao dịch dân sự vô hiệu không cong quyền này nữa.
Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của BLDS 2005: Thực chất cách phân loại này dựa trên quy định của Điều 122 BLDS, từ đó đưa ra các trường hợp khái quát sự vi phạm các điều kiên có hiệu lực của giao dịch dân sự. Theo đó, giao dịch dân sự được chia thành:
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội: Đó là các giao dịch có mục đích và nội dung trái pháp luật và đạo đức xã hội (căn cứ vào Điều 122 BLDS). Điều 128 BLDS quy định rõ “giao dịch dân sự có mục đích và nội dung trái vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: đây là một trong các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm nguyên tắc tự nguyện của chủ thể tham gia giao dịch bởi khi đó ý chí đích thực của chủ thể không hề đồng nhất với sự bày tỏ ý chí. Tại Điều 129 BLDS, pháp luật có nêu ra 2 tình huống mà giao dịch dân sự được xác lập do sự giả tạo hướng đến. Thứ nhất, nếu giao dịch đó được xác lập nhằm mục đích che dấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực trừ trường hợp giao dịch bị che dấu đó cũng vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Thứ 2, nếu giao dịch đó được xác lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 thì giao dịch đó vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện: (Điều 130 BLDS 2005) Như đã trình bày ở trên, những đối tượng này có thể tham gia giao dịch dân sự chỉ khi có người đại diện thay họ xác lập, thực hiện giao dịch. Khi xuất hiện các dấu hiệu vi phạm trong giao dịch dân sự, người đại diện có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Giao dịch vô hiệu do bị nhầm lẫn: Theo cách hiểu thông thường thì nhầm lẫn là sự nhận thức hoặc sự bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực bên trong của các bên khi tham gia giao kết. Sự nhầm lẫn của các bên tham gia giao dịch có thể xuất phát từ một phía hoặc từ cả 2 phía, có thể do thiếu kiến thức hoặc những điều kiện nhất định để hiểu rõ ý tưởng của phía đối tác. Tuy nhiên tại Điều 131 BLDS 2005 của nước ta chỉ quy định giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn do lỗi của 1 phía là phía đối tác. Như vậy trên thực tế, trong công tác xử án của tòa án thường gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi gặp trường hợp lỗi làm cho nhầm lẫn thuộc về cả 2 bên tham gia hoặc lỗi gây nhầm lẫn lại thuộc về chính người bị nhầm lẫn.
Trước khi yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó. Nếu bên kí không đồng ý thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Nếu một bên bị nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên kia thì trường hợp này sẽ xác định giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối theo quy định tại điều 132 BLDS.
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa:
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của 1 bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hay nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Do đó thể hiện không đúng ý chí của mình. Để xác định được yếu tố lừa dối trong giao dịch dân sự phải căn cứ vào 2 điều kiện: 1 bên có hành vi sử dụng thủ đoạn để lừa người khác và người bị lừa phải nghe theo, làm theo một việc nào đó làm thiệt hại đến lợi ích của họ.
Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ 3 làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình (Điều 132 BLDS). Như vậy, hành vi đe dọa là sự cố ý của một bên làm cho đối tác hay người tham gia giao dịch với họ khiếp sợ đến mức họ phải thiết lập giao dịch mà không theo ý muốn chủ quan của họ. Khi giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối, đe dọa thì bên bị lừa dối, đe dọa có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình: loại giao dịch này áp dụng cho những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Dù vậy không phải lúc nào họ cũng có thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình được như rơi vào tình trang say rượu, bia…Cho nên nếu họ xác lập giao dịch dân sự vào thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì họ có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: Hình thức của giao dịch dân sự được xác định là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp pháp luật quy định. Cho nên đối với các giao dịch pháp luật buộc các bên phải thông qua một hình thức nhất định mà các bên không thông qua hình thức này thì tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ấn định 1 thời hạn để các bên hoàn thành các thủ tục về hình thức, quá thời hạn này mà các bên không thực hiện thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Theo cách phân loại truyền thống thì giao dịch vô hiệu được chia làm 2 loại giao dịch vô hiệu tuyệt đối (hay còn gọi là vô hiệu đương nhiên) và giao dịch vô hiệu tương đối (còn gọi là vô hiệu bị tuyên). Đây là cách phân loại khá phổ biến và được nhiều người thừa nhận hiện này. Cơ sở của cách phân loại này dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của 2 khái niệm, ngoài ra cách phân loại này cũng thể hiện được các trướng hợp cụ thể được quy định trong pháp luật. Phân biệt 2 khái niệm này dựa vào các điểm sau:
Đặc điểm
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối
Trình tự vô hiệu của giao dịch
Mặc nhiên được coi là vô hiệu.
Không mặc nhiên vô hiệu
Chỉ vô hiệu khi hội đủ những điều kiện nhất định:
+ Đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan.
+ Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu
_Không bị hạn chế
_2 năm kể từ ngày giao dịch dược xác lập đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức (vì hiệu lực của giao dịch phụ thuộc vào ý chí của chủ thể mà không phải nhà nước.)
2 năm từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (Điều 136 BLDS 2005).
Hiệu lực pháp lý của giao dịch
Không có hiệu lực pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dich ngay cả khi các chủ thể đã tiến hành thực hiện các nội dung đã cam kết.
Có hiệu lực pháp lý cho đến khi bị tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Bản chất quyết định của Tòa án
Quyết định của tòa án không mang tính phán xử mà đơn thuần chỉ là hình thức công nhận sự vô hiệu của giao dịch dân sự. Ngoài ra, quyết định của tòa án nhằm xác định hậu quả pháp lý và mang tính cưỡng chế buộc các bên vi phạm phải thực hiệu hậu quả của giao dịch vô hiệu.
Mang tính chất phán xử, là cơ sở duy nhất khiến cho giao dịch dân sự trở nên vô hiệu.
1.4. Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Nhìn vào cách phân loại giao dịch dân sự vô hiệu ta thấy thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự có 2 trường hợp (Điều 136 BLDS)
Các giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối). Đó là giao dịch dân sự thuộc các trường hợp: vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo.
Các giao dịch dân sự có thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch gồm có :
+ Giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do bị nhầm lẫn.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối, đe dọa
+ Giao dịch dân sự do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do không tuân thủ quy định về hình thức. Trong BLDS 1995, giao dịch này được xếp vào giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và có thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là không bị giới hạn thì hiện nay, theo BLDS 2005, dù giao dịch dân sự vi phạm quy định về hình thức vẫn được coi là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối nhưng thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu lại là 2 năm như các giao dịch thuộc giao dịch dân sự tương đối.
Nhìn chung quy định về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu như hiện nay là hợp lý, thống nhất với các quy định về thời hiệu, thời hạn trong các ngành luật liên quan khác.
Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Sau khi 1 giao dịch dân sự vô hiệu sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định do pháp luật quy định. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định hậu quả pháp lý của một giao dịch dân sự vô hiệu cần căn cứ vào nhiều yếu tố như mức độ vi phạm, mức độ lỗi…để có thể bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia giao dịch.
Về nguyên tắc, theo Điều 137 BLDS thì “Giao dịch dân sự không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập”, tức là mục đích, mong muốn, nguyện vọng ban đầu của các bên khi xác lập giao dịch không thể đạt được. Có thể coi đây là hậu quả pháp lý chung nhất, khái quát nhất của giao dịch dân sự vô hiệu. Về cụ thể, các chủ thể phải chịu các hậu quả pháp lý trực tiếp phát sinh từ giao dịch dân sự vô hiệu là :
Thứ nhất, hậu quả pháp lý phát sinh: “các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Trong trường hợp các bên chưa thực hiện giao dịch thì không được tiếp tục thực hiện, nếu giao dịch được thực hiện đến đâu thì dừng đến đó. Theo quy định trên, các chủ thể phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Ví dụ A bán cho B một chiếc máy tính laptop nhưng A lại nói dối B là mới mua và sử dụng máy được 5 tháng nhưng thực chất là A dùng laptop hơn 1 năm rồi mới bán cho B. Giao dịch dân sự giữa A và B là giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định về sự tự nguyện giữa các bên. Hậu quả pháp lý phát sinh từ giao dịch này là việc B phải hoàn trả tiền đã thanh toán cho A và A phải trả lại tài sản là chiếc máy tính laptop cho B.
Tuy nhiên cần lưu ý là các bên hoàn trả cho nhau hiện vật chỉ trong trường hợp hiện vật chưa hề được đưa vào sử dụng, cải tạo, thay đổi…Có trường hợp, tài sản là đối tượng của giao dịch không còn nữa (bị tiêu hủy, mất, hết…) thì pháp luật quy định phải hoàn trả bằng tiền.
Thứ hai, đối với hậu quả pháp lý của những trường hợp đối tượng giao dịch là tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu theo quy định của pháp luật: “trường hợp tài sản giao dịch, hoa lơi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật”. Hiện nay đang có 1 số ý kiến cho rằng nên bỏ quy định tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức khi giao dịch dân sự vô hiệu. Bởi tính khả thi thực tế của quy định này rất thấp đặc biệt đối với trường hợp giao dịch vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa. Thông thường, chỉ khi hành vi vi phạm cấu thành bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc tịch thu mới được đặt ra. Thực tế cả 2 bên chỉ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được.
Hơn nữa đối với giao dịch dân sự vô hiệu không cần tịch thu thì quyền lợi của bên bị vi phạm đã được đáp ứng do được hoàn trả tài sản và bồi thường thiệt hại. Còn người vi phạm, tùy theo mức độ có thể bị xử lý bởi chế tài của các ngành luật khác nhau và lúc đó biện pháp tịch thu có thể được áp dụng.
Thứ ba, về hậu quả phải bồi thường thiệt hại: trong vấn đề này, trước hết phải xác định được mức độ thiệt hại của các bên tham gia giao dịch, từ đó mới phát sinh hậu quả bồi thường. Để đưa ra hướng xử lý cụ thể và xác đáng, cần xác định một cách rõ ràng lỗi của các bên làm cho giao dịch dân sự bị vô hiệu.
Ví dụ trong một giao dịch mua bán bình cổ giữa các cá nhân với nhau được xác định là giao dịch vô hiệu, cần xác định lỗi của cả 2 bên. Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng rằng cái bình cổ đó có từ thế kỷ 13 nhưng thực chất nó xuất hiện từ thế kỷ 15. Thông tin này từ người bán là hoàn toàn sai sự thật nhằm làm cho người mua tin theo và giao kết hợp đồng mua bán. Bên mua được coi là có lỗi khi nói dối bên bán về mục đích thực hiện hoạt động mua bán của mình nhưng thực chất lại không phải như vậy.
Thứ tư, hậu quả pháp lý phát sinh đối với người thứ 3 ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (21trang).doc