Tiểu luận Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định nào về việc khôi phục chế độ sản chung sau khi chia tài sản chung .Tuy nhiên ,trong Nghị định số 70/2001/NĐ – CP tại Điều 9 và Điều 10 lại có quy định về vấn đề này .Xét về hiệu lực pháp lý ,các quy định của nghị định phải phù hợp với quy định trong luật vì luật có hiệu lực pháp lý cao hơn ,nghị định chỉ có thể quy định chi tiết việc thi hành luật mà không thể quy định trái với luật .Hơn nữa ,quy định về việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng trong nghị định cũng còn thể hiện một số điểm không hợp lý .Cụ thể là:

- Thứ nhất : Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi đã chia hết tài sản chung ,nhưng không phải trong trường hợp chia tài sản chung nào trong thời kỳ hôn nhân cũng chia hết tài sản chung như đã phân tích ở trên ,vì vậy ,nếu chưa chia hết tài sản chung thì chế đọ tài sản chung vẫn đương nhiên tồn tại mà không phụ thuộc vào thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng .Ngay trong quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 70/2001/NĐ – CP cũng đã thể hiện rõ mâu thuẫn này .

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2318 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Toà án có hiệu pháp luật ” (1) .So với Điều 18 Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì quy định tại Điều 29 và 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là hợp lý hơn.Việc chia một phần tài sản chung có ý nghĩa thiết thực ,phù hợp với thực tiễn đời sống chung của vợ chồng ,bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ về tài sản của vợ (chồng ) đồng thời vẫn bảo đảm đựơc lợi ích chung của gia đình. Về phía các bên vợ chồng ,yêu cầu chia toàn bộ tài sản chung chỉ đặt ra trong những hoàn cảnh đặc biệt như phải thực hiện nghĩa vụ tài sản quá lớn mà nếu chia một phần tài sản chung thì không đủ hoặc một bên có yêu cầu chia khi bên kia có hành vi phá tán tài sản ,nghiện hút,cờ bạc ,…Việc chia một phần tài sản chung khác với chia toàn bộ tài sản chung ở chỗ nó không gây ra những ảnh hưởng lớn đến đời sống chung của gia đình ,không làm mất ổn định cuộc sống chung .Ngoài phần tài sản được chia riêng cho mỗi bên vợ,chồng thì phần tài sản chung còn lại không chia sẽ bảo đảm đời sống chung của gia đình .Khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý về tài sản như sau : 1.2.1 ) Quyền sở hữu riêng của vợ ,chồng đối với phần tài sản được chia : Theo quy định tại Điều 29 và 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có quyền sở hữu riêng đối với phần tài sản đã được chia và hoa lợi.lợi tức phát sinh từ phân tài sản đã được chia. Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP cũng quy định : “ Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.”.Ví dụ : Hai vợ chồng có ba ngôi nhà là tài sản chung ,họ thoả thuận chia mỗi người được sở hữu riêng một ngôi nhà ,còn một nhà được dung làm chỗ ở chung của gia đình.Sau khi chia, vợ hoặc chồng có thể độc lập quyết định việc dùng ngôi nhà đã chia đó để cho thuê ,bán ,…mà không phụ thuộc vào ý chi của bên kia .Tiền thuê nhà là tài sản sản riêng của mỗi bên .Đối với những tài sản này vơ,chồng có quyền chiếm hữu ,sử dụng,định đoạt theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 .Vậy trong trường hợp này ,vợ ( chồng ) có tài sản riêng có bị hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng đó theo quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không ? Theo quan điểm của cá nhân thì trong trường hợp này vợ, chồng không bị ràng buộc bởi quy định tại Khoản 5 Điều 33 khi định đoạt tài sản riêng của mình vì vợ, chồng đã có sự thoả thuận trước về việc chia tài sản đó . 1.2.2 ) Quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với phần tài sản chung : Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “…; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.” .Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP quy định rõ thêm : “…Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ, chồng”. Đối với phần tài sản chung này ,quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng không thay đổi ,chế độ sở hữu chung của vợ chồng chưa chấm dứt, nó vẫn đương nhiên tồn tại và là sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng sau khi chia một phần tài sản chung sẽ bao gồm : - Phần tài sản chung của vợ chồng chưa chia. - Hoa lợi ,lợi tức phát sinh từ những tài sản này . - Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung sau khi chia tài sản chung.Vì quan hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại nên tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung ,được thừa kế chung là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. - Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung.Ví dụ : Đất được Nhà nước giao , giao khoán ,đất mà vợ chồng thuê của Nhà nước ,được chuyển nhượng ,được thừa kế chung ,cho chung..Trong những trường hợp này ,quyền sử dụng đất vẫn là tài sản chung của vợ chồng vì theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “…Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng…”. - Quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hoặc chồng có được sau khi chia tài sản chung do được Nhà nước giao , giao khoán ,hoặc được thuê của Nhà nước …Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các Điều 24 ,Điều 25 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì đây là tài sản chung của vợ chồng.Tuy nhiên , sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hoặc chồng có được chỉ là tài sản chung của vợ chồng nếu nó không liên quan đến lý do chia tài sản chung của vợ chồng .Ví dụ : Sau khi chia tài sản chung ,vợ hoặc chồng thuê đất hoặc được giao đất để đầu tư kinh doanh riêng hoặc nuôi trồng thuỷ sản …thì quuyền sử dụng đất đó là tài sản riêng của mỗi người .Ngược lại ,nếu vợ ,chồng yêu cầu chia một phần tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên như nghĩa vụ đền bù thiệt hại ,nghĩa vụ trả nợ,…mà sau đó vợ hoặc chồng được giao đất ,thuê đất …thì quyền sử dụng đất đó là tài sản chung của vợ chồng.Đây là những trường hợp đặc biệt cần được quy định cụ thể khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .Theo quan điểm của cá nhân ,trong trường hợp này cần quy định theo hướng : Quyền sử dụng đất mà vợ chồng hoặc mỗi bên vợ hoặc chồng có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vẫn là tài sản chung của vợ chồng ,trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó có được xuất phát từ việc chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng. - Một vấn đề rất quan trọng là tài sản mà vợ, chồng làm ra sau khi chia tài sản chung : tiền lương, tiền công lao động …là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của mỗi bên ? Về vấn đề này , Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định cụ thể nhưng trong Nghị định số 70/2001/NĐ – CP có quy định tại khoản 2 Điều 8 như sau : “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Theo quan điểm của cá nhân thì quy định này là không hợp lý cả về lý luận và thực tiễn .Quy định này bộc lộ một số điểm bất cập và mâu thuẫn sau : + Thứ nhất : theo quy định tại Điều 27 thì tài sản do bất cứ ai ,vợ hay chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng , không phân biệt mức đóng góp ,mức thu nhập của mỗi bên ,không đòi hỏi phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra .Khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ,vì hôn nhân vẫn đang tồn tại và do tính chất cộng đồng của hôn nhân chi phối nên thu nhập do lao động,hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên vợ ,chồng về nguyên tắc vẫn là tài sản chung của vợ chồng ,trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác .Nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì cẩn phải hiểu rằng sau khi chia tài sản chung , mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo ra cũng như mọi thu nhập từ lao động của mỗi bên vợ hoặc chồng sẽ không còn là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất nữa bất kể từ nguồn gốc nào .Và như vậy đương nhiên sẽ dẫn dến tình trạng không còn tồn tại chế độ sở hữu chung hợp nhất nữa vì sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng cơ bản có được từ lao động của mỗi bên vợ ,chồng .Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ,do đó ,cần kịp thời có sự sửa đổi quy định này . + Thứ hai : quy định trên cũng không phù hợp với ý chí và mong muốn của vợ chồng bởi vì khi có yêu cầu chia tài sản chung ,vợ hoặc chồng chỉ mong muốn chia tài sản để có điều kiện thực hiện các nghĩa vụ riêng về tài sản hoặc đầu tư kinh doanh riêng …mà không muốn chấm rứt chế độ sở hữu chung. Ngay trong trường hợp chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng nhưng trong đời sống vợ chồng nhiều khi các bên vợ chồng cũng tự nguyện nhập hoa lợi ,lợi tức phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh vào tài sản chung .Vì vậy , mếu không có thoả thuận khác thì thu nhập do lao động ,hoạt động sản xuất kinh doanh phát sinh từ phần tài sản đã được chia là tài sản riêng của mỗi bên vợ ,chồng .Việc chia tài sản chung để đàu tư kinh doanh riêng một mặt tạo điều kiện cho đương sự có vốn cần thiết để sản xuất kinh doanh nhưng lý do khác quan trọng hơn là vì lợi ích chung của gia đình ,xuất phát từ ý chí của đương sự là không muốn những rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến gia đình ,tránh tình trạng “ khuynh gia bại sản” .Khi chia tài sản chung với mục đích để đầu tư kinh doanh riêng cần phân biệt hai loại thu nhập phát sinh sau khi chia tài sản chung là : Hoa lợi ,lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia do chính hoạt động sản xuất kinh doanh đó ( loại thu nhập này là tài sản riêng của vợ , chồng nếu không có thoả thuân khác ) và những thu nhập khác của vợ ,chồng không liên quan đến phần tài sản đã được chia như : Tiền lương ,tiền thưởng ,tiền trợ cấp ,tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất khi giải phóng mặt bằng… cũng như những thu nhập hợp pháp khác của vợ,chồng như tiền xổ số vì hôn nhân vẫn còn tồn tại nên về nguyên tắc tất cả những tài sản này vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng chứ không thể là tài sản riêng của mỗi bên .Vì vậy thu nhập do lao động , hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung chỉ là tài sản riêng của vợ chồng nếu những thu nhập đó có được gắn liền với phần tài sản được chia ,ngược lại ,những thu nhập đó là tài sản chung của vợ chồng nếu nó có được không liên quan đến phần tài sản đã được chia .Do vậy ,quy định như khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP là không chính xác . + Thứ ba : sau khi chia tài sản chung ,đa số các cặp vợ chồng vẫn sống chung ,chỉ trong những hoàn cảnh đặc biệt họ mới sống riêng.Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không phải là quy định về ly thân nên không đương nhiên dẫn đến chế độ biệt sản .Sau khi chia tài sản chung ( dù chia một phần hay chia toàn bộ ) vợ chồng vẫn sống chung nên việc duy trì đời sống chung là trách nhiệm của cả hai vợ chồng ,không phân biệt mức độ thu nhập của mỗi bên .Nếu một bên không có thu nhập , không có tài sản thì bên kia vẫn phải chăm lo đời sống chung của gia đình . Tuy nhiên ,trách nhiệm đóng góp của vợ chồng vào đời sống chung của gia đình như thế nào thì lại chưa có quy định ,trong khi đó theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì toàn bộ thu nhập do lao động ,hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ ,chồng .Như vậy , trong trường hợp vợ ,chồng chia hết ( chia toàn bộ tài sản chung ) mà sau đó không có tài sản chung nào khác : không có tài sản thừa kế ,không được tặng cho chung tài sản …thì đời sống chung của gia đình sẽ được bảo đảm như thế nào ? Rõ ràng là vấn đề này ,quy định trên đã thể hiện sự không đầy đủ ,thiếu chặt chẽ và logic .Trong pháp luật các nước ,vợ chồng có thể thoả thuận về tài sản trước khi kết hôn ,có thể phân chia tài sản chung và bất cứ tài sản nào mà vợ hoặc chồng có được sau khi chia tài sản chung sẽ là tài sản riêng của người đó. Đối với tài sản mà vợ chồng được thừa kế hoặc được tặng cho sau khi chia tài sản chung sẽ trở thành tài sản riêng chia đều cho cả vợ và chồng (2) .Trách nhiệm của vợ ,chồng đối với đời sống chung của gia đình sau khi chia tài sản chung cũng được quy định rõ ràng như :“…cả hai vợ chồng phải chịu trách nhiệm thanh toán những chi tiêu của gia đình theo tỷ lệ tương ứng với số tài sản riêng của mỗi người”(3).Vì vậy ,theo quan điểm cá nhân ,nếu đã quy định như khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì cần phải có quy định cụ thể về trách nhiệm của vợ chồng đối với đời sống chung của gia đình sau khi chia tài sản chung . 1.2.3 ) Vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung : Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định nào về việc khôi phục chế độ sản chung sau khi chia tài sản chung .Tuy nhiên ,trong Nghị định số 70/2001/NĐ – CP tại Điều 9 và Điều 10 lại có quy định về vấn đề này .Xét về hiệu lực pháp lý ,các quy định của nghị định phải phù hợp với quy định trong luật vì luật có hiệu lực pháp lý cao hơn ,nghị định chỉ có thể quy định chi tiết việc thi hành luật mà không thể quy định trái với luật .Hơn nữa ,quy định về việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng trong nghị định cũng còn thể hiện một số điểm không hợp lý .Cụ thể là: - Thứ nhất : Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi đã chia hết tài sản chung ,nhưng không phải trong trường hợp chia tài sản chung nào trong thời kỳ hôn nhân cũng chia hết tài sản chung như đã phân tích ở trên ,vì vậy ,nếu chưa chia hết tài sản chung thì chế đọ tài sản chung vẫn đương nhiên tồn tại mà không phụ thuộc vào thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng .Ngay trong quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 70/2001/NĐ – CP cũng đã thể hiện rõ mâu thuẫn này . - Thứ hai : Việc khôi phục chế độ tài sản chung sẽ là cần thiết ,có ý nghĩa và logic nếu có quy định rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ làm chấm rứt hoàn toàn chế độ sở hữu chung của vợ chồng ,bất cứ tài sản nào mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung đều là tài sản riêng của mỗi bên vợ ,chồng ,,kể cả những tài sản mà vợ chồng đựơc thừa kế chung ,được tặng cho chung sẽ được chia đều cho mỗi bên và là tài sản riêng của vợ,chồng .Nói cách khác ,việc khôi phục chế độ tài sản chung sẽ là hợp lý nếu thừa nhận rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ dẫn đến chế độ biệt sản .Với các quy định trong Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì có thể dẫn tới cách hiểu này .Song điều đó rõ ràng không phải là ý muốn của các nhà lập pháp . - Thứ ba : Việc quy định về khôi phục chế độ tài sản chung theo quan điểm cá nhân là không cần thiết .Bởi vì : theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì : “Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.”.Vì pháp luật nước ta không quy định vợ chồng có quyền lập hôn ước nên khi nhập taìu sản riêng vào khối tài sản chung thì khối tài sản chung đó sẽ tuân theo chế độ tài sản pháp định ,tức là chế độ sở hữu chung hợp nhất .Việc khôi phục chế độ tài sản chung thực chất là đem phần tài sản riêng của mỗi bên vợ ,chồng góp vào tài sản chung và như vậy chế độ sở hữu chung của vợ chồng sẽ không còn là sở hữu chung hợp nhất nữa mà là sở hữu chung theo phần .Điều đó là mâu thuẫn với các quy định về chế độ sở hữu tài sản của vợ chồng trong pháp luật nước ta , làm phức tạp thêm các mối quan hệ của vợ chồng về tài sản đồng thời không bảo vệ được lợi ích chung của gia đình một cách có hiệu quả nhất . Với điều kiện kinh tế hiện nay ở nước ta ,việc quy định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cần thiết ,đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn .Song để giải quyết tốt nhất các tranh chấp có thể xảy ra ,,bảo đảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thì các quy định của pháp luật về vấn đề này cần được quy định một cách chặt chẽ ,thống nhất và hợp lý hơn. 2 ) Liên hệ thực tiễn : Trường hợp của anh Phạm Sỹ Kiên và chị Nguyễn Thị Hoa cư trú tại thôn Ứng Liêm ,xã Thanh Hà ,huyện Thanh Liêm ,tỉnh Hà Nam .Chị Hoa là một giáo viên dạy cấp hai , anh Kiên là một công chức tại Cục địa chính .Anh chị đã có một cậu con trai ,gia đình sống rất hoà thuận hạnh phúc .Năm 2007 ,khi thị trường chứng khoán đã trở lên sôi động tại Việt Nam ,theo một số đồng nghiệp khác ,anh Kiên đã tham gia chơi chứng khoán .Biết được việc làm này của chồng ,chị Hoa đã không đồng tình và có ý ngăn cản vì sợ rủi ro .Sau khi được sự tư vấn của một chị bạn làm tại Toà án nhân dân tỉnh Hà nam ,chị Hoa đã về thoả thuận với chồng về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để anh Kiên có thể dùng tài sản của mình đầu tư vào chứng khoán, mà không ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình .Sau một thời gian ,thị trường chứng khoán biến động mạnh ,anh Kiên đã mất toàn bộ số vốn đầu tư ban đầu ,không những thế còn nợ nần chồng chất .Lúc ấy ,vợ chồng anh mới thấy giá trị của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ,khi mà phần tài sản đã chia của chị Hoa vẫn còn nguyên giá trị . Theo số liệu thống kê tại Phòng tổng hợp Toà án nhân dân Tối cao , thì số vụ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong cả nước năm 2004 là 159 vụ ,năm 2005 là 398 vụ ,năm 2006 là 404 vụ , năm 2007 là 371 vụ ,năm 2008 là 346 vụ .Có thể nhận thấy rằng đây là một con số khá ít ỏi so với những án về hôn nhân gia đình khác như : ly hôn , cấp dưỡng ,hay thay đổi người nuôi con ,... Một dẫn chứng điển hình đó là tại Toà án nhân dân thành phố Hải Dương trong cả năm 2008 cũng chỉ có một vụ yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng tròng thời kỳ hôn nhân giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Xuyên ,sinh 1932 và bị đơn là ông Lương Quang Nhĩ ,sinh 1936 .Vụ án đã được xét xử sơ thẩm theo bản án số 05 ngày 25 tháng 12 năm 2008 ,với nội dung như sau : bà Xuyên và ông Nhĩ chung sống như vợ chồng từ năm 1957 và có tài sản chung là 587,6 m2 đất ở đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất .Trừ 435,1 m2 vợ chồng đã có các con làm nhà và không yêu cầu giải quyết , còn lại 152,5 m2 đất ở còn lại .Theo bà Xuyên thì phần diện tích này trước đây là đất ao , bà đã bỏ tiền ra thuê san lấp hết 10.000.000 đồng .Để có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ,bà phải vay để nộp thuế trước bạ là 25.340.000 đồng .Vì vậy bà đề nghị được xem xét công sức của bà trong việc tạo dựng tài sản để được chia nhiều hơn ông Nhĩ và ông Nhĩ phải trả bà một nửa tiền thuế trước bạ là 12.670.000 đồng để bà trả nợ. Ông Nhĩ xác nhận tài sản chung của vợ chồng chỉ có 587,6 m2 đất ở ,trừ 435,1 m2 đã cho các con làm nhà ,còn lại 152,5 m2 là ao ,vợ chồng đã sống ly thân và bà Xuyên đã thuê san lấp bằng tiền của bà Xuyên .Đồng ý tiền nộp thuế trước bạ là nợ chung vợ chồng nhưng không nhất trí chịu 1/2 số tiền trên và không nhất trí chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân .Anh Lương An Ninh là con cả của bà Xuyên và ông Nhĩ không yêu cầu về nhà tạm và tường rào là do anh làm ,trị giá 637.000 đồng trên phần đất 152,5 m2 của bà Xuyên và ông Nhĩ vì tài sản đã hết khấu hao .Chị Phạm Thị Luyện là con dâu của bà Xuyên và ông Nhĩ là người cho bà Xuyên vay tiền nộp thuế trước bạ nhưng không yêu cầu Toà án giải quyết . Bản án sơ thẩm số 05 ngày 25 tháng 2 năm 2008 của Toà án nhân dân thành phố Hải Dương đã áp dụng Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình ,Khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự , khoản 2 Điều 301 Bộ luật tố tụng dân sự để ra quyết định như sau : Xác nhận bà Xuyên và ông Nhĩ có tài sản chung là 587,6 m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , trừ diện tích đã chia cho chưa làm thủ tục tại cấp có thẩm quyền , còn lại 152,5 m2 được chia như sau : Xử giao cho ông Nhĩ được sở hữu 67,5 m2 đất trị giá 202.500.000 đồng gồm : Cạnh phía Bắc dài 13,0 m2 giáp đất đã chia cho các con ,cạnh phía Đông dài 4m giáp nhà ông Nghĩa .Cạnh phía Nam dài 11,96m giáp đất chia cho bà Xuyên và cạnh phía Tây dài 7m giáp ngõ đi chung . Xử giao cho bà Xuyên được sở hữu 85 m2 đất trị giá 255.000.000 đồng gồm : Cạnh phía Bắc dài 11,96 m giáp đất chia cho ông Nhĩ ,cạnh phía Đông dài 7,4 m giáp nhà ông Nghĩa ,cạnh phía Nam dài 10,92 m và cạnh phía Tây dài 7,5 m đều giáp ngõ đi chung . Xác nhận số nợ 25.340.000 đồng là nợ chung vợ chồng.Ông Nhĩ trả bà Xuyên 12.670.000 để bà Xuyên trả nợ . Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về nghĩavụ chậm thi hành ,về án phí và quyền kháng cáo theo luật định .Ngày 5/3/2008 bị đơn là ông Lương Quang Nhĩ kháng cáo với nội dung : không nhất trí chia tài sản chung của vợ chồng vì chia ly hôn ,không nhất trí chịu 1/2 số nợ do bà Xuyên vay để nộp thuế trước bạ và không nhất trí chịu án phí chia tài sản . Căn cứ các tài liệu ,chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên Toà ,trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ và lời trình bày của các đương sự ,Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương đã mở phiên Toà công khai 21/4/2008 tại trụ sở để xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số 11 ngày 26/3/2008 .Trong bản án phúc thẩm đã sử bản án sơ thẩm như sau :xử cho ông Nhĩ chỉ phải tả bà Xuyên để bà Xuyên trả nợ tiền thuế trước bạ đối với diện tích ông Nhĩ được hưởng là 2.911.000 đồng ,chứ không phải là 12.670.000 đồng .Vì cho rằng ,án sơ thẩm buộc ông Nhĩ phải trả bà Xuyên 1/2 tổng số tiền bà Xuyên đã nộp thuế trước bạ : 12.670.000 gồm cả phần diện tích không yêu cầu chia là không chính xác.Như vậy,có thể thấy Bản án phúc thẩm đã bỏ qua một tình tiết hợp lý tại Bản án sơ thẩm đó là : xác nhân số nợ 25.340.000 đồng là nợ chung của vợ chồng .Thật vậy ,khi bà Xuyên vay tiền của chị Luyện để nộp tiền thuế trước bạ cho toàn bộ diện tích đất của hai ông bà với số tiền là 25.340.000 đồng thì đó đương nhiên là phải nợ chung của vợ chồng ,và ông Nhĩ phải chịu 1/2 số tiền đó là đúng .Bản án phúc thẩm như vậy là không chính xác.Một thực tế nữa cần xem xét là đa số những cặp vợ chồng bắt đầu nghĩ đến chuyện chia tài sản chung khi có những mâu thuẫn ,khi đó nó như một cách để họ có thể giải thoát cho nhau mà không cần ly hôn .Vì vậy ,sau khi chia tài sản chung thì họ càng trở lên xa cách ,bởi một lẽ đơn giản ,tài sản đã chia ,tình cảm cũng khó mà bền chặt .Trên mục tâm sự tại tập chí gia đình , chị Nguyễn Thị Thu Trang ( Phú Thọ ) đã bầy tỏ những băn khoăn của mình về vấn đề này như sau : Tháng trước ,chị đuợc cô em gái chồng nói cho biết về chuyện chồng chị cho bạn vay tiền ( hơn 500 triệu đồng ) và anh bạn đó vừa bị bắt về tội lừa đảo tài sản .Khả năng đòi lại sô tiền đó là rất ít bởi ngoài chống chị ,người bạn đó còn nợ của rất nhiều người nhưng không có khả năng thanh toán .Đó là số tiền mà hai vợc hồng phải làm việc rất vất vả mới dành dụm được ,định sang năm sẽ xây lại nhà nhưng anh ấy đã cho bạn vay tiền không nói vối chị câu nào .Bây giờ có trách anh ấy cũng đã muộn .Nhờ tìm đến luật sư tư vấn , chị đã có ý định chia luôn tài sản để tránh chuyện không hay xảy ra .Nhưng cũng rất băn khoăn ,liệu việc vợ chồng chia tài sản khi đang sống chung có ảnh hưởng gì đến hạnh phúc của gia đình .Đó cũng là những băn khoăn của nhiều cặp vợ chồng trên thực tế .Vì vậy, trước khi đi đến quyết định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ,vợ chồng cần suy nghĩ thật kỹ để tránh những hậu quả không hay có thể xảy đến . 3 ) Những vướng mắc về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và phướng hướng hoàn thiện : 3.1 ) Những vướng mắc về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân : - Thứ nhất : Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000), là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng qui định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào? - Thứ hai : Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ qui định, vợ, chồng có thể yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu không có hoặc không thoả thuận được. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa qui định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trước đây, Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 đã qui định: “Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo qui định ở Điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. - Thứ ba : Qui định trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản mà không qui định trách nhiệm của họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung là một qui định quá “mở”. Giả sử, ngay sau khi kết hôn với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng có thoả thuận toàn bộ tài sản chung được chia, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi đó lợi ích gia đình được đặt ở vị trí nào? Nếu thoả thuận này được thực hiện thì quan hệ hôn nhân chỉ còn tồn tại về mặt nhân thân, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng đã được dân sự hóa, bản chất của hôn nhân XHCN vì thế không được thực hiện. - Thứ tư : Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70 qui định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ lại không qui định ai là người có thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thoả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.doc
Tài liệu liên quan