Mặc dù người Chàm sống ngay dưới các chân núi không thiếu đá, nhưng lại rất ít dùng đá mà vẫn trung thành lâu dài với chất liệu gạch. Về kết cấu kiến trúc thì các tháp Chàm đẹp hơn của Khơ me, chắc là do họ giữ được ý thức về chất liệu và biết tôn trọng bản chất của nó. Trong khi đó người Khơ me có xu hướng dựng lên một khối bằng bất cứ vật liệu nào rồi chạm khắc lên đó. Còn nghệ thuật Chàm cân bằng hơn, nhịp điệu hơn và sáng sủa hơn. chúng tạo cho điện thờ Chàm một vẻ đẹp trang trọng, thanh nhã và bay bổng. Tuy không đồ sộ bề thế như các đền núi Khơme nhưng các tháp Chàm đâu phải là không hoành tráng.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2643 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hãy phân tích những nét đẹp riêng của tháp Chàm trong so sánh với những kiến trúc cổ Đông Nam Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Khu vực Đông Nam á với vị trí chiến lược, là ngã tư đường, được coi như là chiếc cầu nối giữa phương Đông với phương tây. do vị trí như vậy nên khu vực Đông Nam á được tiếp nhận nhiều luồng ảnh hưởng văn hoá của thế giới. Trong văn hoá Đông Nam á có những dấu ấn cùng những ảnh hưởng của thế giới Hy - la, của hai nền văn minh Trung Hoa, ấn Độ, của thế giới hồi giáo Trung Đông và cả nền văn hoá bản địa đã tạo ra kiến trúc Đông Nam á, nói chung, nghệ thuật kiến trúc Đông Nam á, nói riêng có một diện mạo rất đặc sắc và riêng biệt so với những nền văn hoá mà Đông Nam á chịu ảnh hưởng.
Chính sự ảnh hưởng của các luồng văn hoá khác nhau trên thế giới, nhất là văn hoá ấn Độ. Nhưng khi văn hoá ấn Độ vào Đông Nam á thi hành loạt các công trình kiến trúc này đều chịu ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ nhưng do sự tiếp thu các thành tố văn hoá của ấn Độ khác nhau đã tạo ra cho các đền thấp này có những đặc điểm nghệ thuât - kiến trúc có những nét riêng biệt. Với sự khác nhau đó thì kiến trúc Đông Nam á trở nên rất đa dạng và phong phú.
Nổi bật lên trong các đền tháp cổ của Đông Nam á là một Bôrôbudu kỳ vĩ của Inđônêxia cũng như một Ăngcovat đồ sộ của Campuchia thì những đền tháp chăm toát lên một vẻ đẹp rất riêng bởi sự uyển chuyển và tinh tế của tháp này. Để thấy được nét đẹp riêng của tháp chàm so với những kiến trúc cổ Đông Nam á, chúng ta hay đi và xem xét qua các kiến trúc cổ này.
Trước hết, đó kỳ tháp Bôrôbudu. Nếu như người môn tiếp thu tiểu thừa thì những Mã lai ở Srivijya lại theo đại thừa mà xây dựng cả một tổng thể Bôrôbudu thật kỳ vĩ tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ dựng lên ở trung tâm thế giới. Gần như ở giữa trung tâm đảo Giava, giữa vùng đồng bằng phì nhiêu, nổi bật lên một hòn núi nhân tạo ngôi đền kỳ vĩ Bôrôbuđu. Ngôi đền chiếm hết đỉnh ngọn đồi, những bậc tam cấp vươn xuống theo triền dốc và như cuộn cả quả đồi vào lòng. Triền đồi thoai thoải dưới chân đền dần dần hoà nhập vào những ruộng bậc thang xung quanh.
Đến gần, theo một nhà nghiên cứu, Bôrôbuđu giống như "một khối hỗn mang vô tổ chức" (đặc biệt là trước khi phục chế), đầy những tháp lớn nhỏ, những khảm tượng và vô số những tác phẩm điêu khắc. Vì thế, có người lại gọi Bôrôbuđu là di tích điêu khắc chứ không phải công trình kiến trúc.
Thực vậy, thoạt nhìn Bôrôbuđu giống như một quần thể điêu khắc; nó dường như che khuất cả cơ cấu và tư tưởng kiến trúc của ngôi đền. Những hình thể tuyệt vời trong các khám và những băng phù điêu dày đặc lập tức cuốn hút người xem, đưa họ vào những hành lang bao quanh ngôi đền, qua rất nhiều khúc ngoặt và cầu thang. Tất cả tạo ra cảm tưởng đây là cả một thành phố với những đường phố, những bậc thang lộ thiên với vô số tháp nhọn hình chuông.
Chiều cao hiện nay của Bôrôbuđu là 31,5 mét, nếu kể cả phần đỉnh của tháp chính (dạng phục chế) thì ngôi đền cao 42 mét, còn mỗi mặt nền dài 123 mét. Để xem hết các bậc và các hồi lang của kiến trúc này, phải đi hơn 5 km. Kích thước và hình dáng của Bôrôbuđu rất khác so với những kiến trúc tôn giáo phổ biến ở Inđônêxia. Bôrôbuđu một kiến trúc lớn duy nhất ở Inđônêxia, không phải là đền thờ mà là tháp tưởng niệm của Phật giáo.
Góp phần tạo nên sự kỹ vĩ và độc đáo của Bôrôbuđu là các tầng hồi lang bao quanh ngôi đền. Toàn bộ ngôi đền có 6 hồi lang vuông (thuộc tầng cuối cùng, cao nhất). Các dãy hồi lang này được trang trí dày đặc bằng hàng trăm bức phù điêu lớn nhỏ khác nhau, nói chung, đề tài rút ra từ các Phật thoại. Có thể nói, các phù điêu trên tường của những hồi lang tiếp nối nhau đã tạo thành một bức tranh nổi hoành tráng, sinh động một câu chuyện liên hoàn về cuộc đời của Đức Thích ca từ lúc sinh thành đến khi hoá Phật.
Sau khi lên đến tầng hồi làng cuối cùng, người ta bước lên ba bậc sân tròn trên đỉnh. ở đây không còn hồi lang và cũng không có phù điêu; chỉ có sân tròn phẳng phiu với 72 bức tượng Phật ngồi trong 72 tháp chuông mà bề mặt tạo ra những tượng Phật, nửa ẩn, nửa hiện đó, cái hình dạng khúc chiết của những tháp chuông được nhắc lại trên ba tầng sân cùng với cái không gian vời vợi của kiến trúc như khiến người xem tự nhận thức về cải giả, cái chân, về hư vô và tồn tại.
Bôrôbuđu quả là một bài ca trên đá về con đường giải thoát của Phật giáo. Nhưng hơn thế, đó còn la bài ca tuyệt vời về lao động sáng tạo của con người. Bôrôbuđu là sự hài hoà đạt đến mức cổ điển của các ngành nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và nghệ thuật trang trí của Inđônêxia truyền thống.
Thứ hai, với Angcovat - không phải xuất hiện từ hư vô mà là đỉnh cao, là sự kết tinh của hơn 300 năm phát triển của loại hình đền mú Khơme. ở Ăngcovat, mỗi ngôi đền mộ là hình ảnh của quả núi vũ trụ Theru, đây là một dạng kiến trúc có hình vim tự tháp ba tầng. Tổng thể kiến trúc Angcovat gồm những thành phần kiến trúc sau: ngoài cùng là một làng hòn đảo lớn, sau đó là hai vòng thành đường tâm, một con đường cắt con hào với các vòng thành tự trục Tây, sang Đông, 3 tầng nền với 3 vòng hình cung. Để có thấy rõ ta quan sát từ bên ngoài vào. Băng qua con hào rộng 190 m là một con đường cắt từ phía Đông sang Tây. ở phía Tây là mặt chính con đường được làm bằng đá, rộng 15 m, có lan can hình rắn naga với kích thước khoảng 815 m x 1000m bằng đá ong và sa thạch. Nó được cắt ở ba cạnh bởi những phòng cổng hình chữ thập. Riêng cổng chính phía Tây thì gồm ba gian cổng phía trên có ba ngọn tháp. Từ cổng này trông ra hai cánh hành lang dài hơn hai trăm mét, đầu cuối của hai cánh hành lang này có những cổng để cho khách bộ hành, voi và xe đi qua. Bước qua cổng chính là một con đường lát đá dài 347 m, rộng khoảng 10 mét, cao cách mặt đất khoảng 11,6 m vào vòng tường thứ hai. Con đường này cũng được viền lan can hình rắn naga. Vòng tường thứ hai bằng đá, rất thấp, kích thước khoảng 270m x 350m. Chiếm gần hết khoảng cách từ vòng tường này đến chân cầu thang trục của tầng nền thứ nhất của ngôi đền là một sân thềm hình chữ thập lớn có hai tầng. Qua sân thềm hình chữ thập này, người ta bắt đầu bước vào tầng thứ nhất của ngôi đền chính. Tầng này được bao quanh bằng một vòng hành lang lợp mái và được phủ kín bằng phù điêu nổi thấp. Một cái sân rộng có lợp máu nối với một cầu thang trục dẫn lên tầng hai. Tầng nền thứ hai có kích thước 100m x 115m cũng có hành lang bao quanh, có ba cửa ra vào ở ba cạnh và hai cửa ra vào ở góc. Bốn góc hành lang đều được phủ những chỏm tháp nhưng ngày nay đã bị hư hỏng nặng. Các bức tường hành lang được trang trí bằng những cửa sổ giả và hình vũ nữ Devata. Tầng nền thứ ba kích thước khoảng 75m x 75m. Nó được nối với tầng dưới bằng hai cầu thang trục ở hai cạnh và các cầu thang trục ở bốn góc. Hệ thống hành lang bao quanh được mở ra ở phía ngoài. Từ các góc mọc lên những tháp có kích thước lớn hơn những tháp ở tầng thứ hai và hiện nay còn ở tình trạng khá nguyên vẹn. Tháp điện thờ trung tâm được đặt trên tầng thứ ba, nó có kích thước lớn hơn hẳn các tháp phụ và có hình búp sen cân đối, chuẩn xác. nó được nối với cổng vào của các tầng dưới bằng những hành lang có cột và nối những tháp ở góc bằng hình thức hành lang có mái vòm. Chiều cao của tháp điện thờ chính bằng 42m. Cộng với các tầng nền, ngôi đền cao khoảng 65m so với mặt đất.
Có thể nói rằng, đứng về mặt cấu trúc, Angcovat không có gì mới, nó chỉ thừa hưởng những thành quả của Ba Phươn và những ngôi đền trước nó. Tuy nhiên, nó đã nhân các thành phần đó lên với một tầm vóc đồ sộ và điều kỳ diệu là nó đã bố trí các thành phần kiến trúc đó theo một tỷ lệ hài hoà chuẩn xác đến đỉnh điểm. Theo một số nhà nghiên cứu thì định luật xa gần và hình học không gian đã được các kiến trúc sư Khơ me biết đến và thể hiện hoàn hảo.
Và với tháp Chàm, so với các nền kiến trúc cổ của Đông Nam á, thì tháp Chàm đã bộc lộ những sắc thái riêng của mình. Tuy cũng là loại tháp tầng như của ấn Độ, nhưng tháp Chàm lại khác các tháp ấn Độ, GiaVa và tháp Khơme. Nếu như ở ấn Độ, GiaVa và Khơme, các đền tháp có dáng vẻ bề thế, chắc chắn nhờ chất liệu đá, thì ửo các tháp Chàm, chất liệu gạch và kỹ thuật xây gạch đã làm cho công trình kiến trúc trở nên cân bằng hơn, sáng sủa hơn và có nhịp điệu hơn. ở tháp Chàm, tính đường bệ và hoành tráng được các cột ốp và các dải trang trí làm tăng thêm và nhấn mạnh bằng những nét và khối nhịp nhàng, cân đối trong khi đó những hoạ tiết trong trang trí hoa lá xum xuê, đôi khi rối rắm và kỳ ảo làm cho kiến trúc như sống động lên. Cả hai xu thế đường bệ hoành tráng và sống động khoẻ khoắn của tháp Chàm đã hoà vào nhau trong sự cân đối và tiết độ. Kết quả là, các tháp Chàm vừa vững chãi, vừa cao quý và cổ kính. Chúng ta hãy đi vào một vài tháp tiêu biểu để thấy rõ được nét đẹp riêng của tháp Chàm so với các kiến trúc cổ của Đông Nam á.
Mặc dù người Chàm sống ngay dưới các chân núi không thiếu đá, nhưng lại rất ít dùng đá mà vẫn trung thành lâu dài với chất liệu gạch. Về kết cấu kiến trúc thì các tháp Chàm đẹp hơn của Khơ me, chắc là do họ giữ được ý thức về chất liệu và biết tôn trọng bản chất của nó. Trong khi đó người Khơ me có xu hướng dựng lên một khối bằng bất cứ vật liệu nào rồi chạm khắc lên đó. Còn nghệ thuật Chàm cân bằng hơn, nhịp điệu hơn và sáng sủa hơn. chúng tạo cho điện thờ Chàm một vẻ đẹp trang trọng, thanh nhã và bay bổng. Tuy không đồ sộ bề thế như các đền núi Khơme nhưng các tháp Chàm đâu phải là không hoành tráng.
Các tháp Hoà lai là những kiến trúc thành công nhất với khối thân hình lập thể mạnh mẽ và bên trên là hệ thống cổ điẻn của các tầng nhỏ dần. Tuy nhiên bên trong đều có khung vòm, nhìn nghiên rất căng, vọt lên như ống khói. Trang khí giới hạn ở những chỗ: khung cửa, các trụ cột ở góc, các đường diềm nhấn ở thượng tầng. Như vậy, trang trí vẫn giữ chức năng, có nghĩa là nhấn mạnh cấu trúc đỡ. Nhưng chúng vẫn phô bày ra một thị hiếu hoàn hảo. Yếu tố tiêu biểu nhất là một dãy cửa tò vò nhiều múi tròn trùm lên các cửa và lỗ hổng ở các tầng trên. Tuy xuất xứ tà cây xà nganh hình cung ở các cổng ấn Độ (torana), ở đây nó giữ vai trò của các trán nhà Khơme. Nó không có nhĩ cửa, nó uốn cong, ở bên trên cửa như một mái hiên. Vành được trang trí bằng những hình lá cuộn, vọt ra từ miệng con quái vật. Các cột khung cửa nhỏ hình hát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường gờ nặng nề ở giữa. Các cửa, thực tế không có mi cửa như ở Khơme. Các trụ ốp (mỗi mặt tường có bốn) bao gồm một trang trí hình lá uốn cong, hình thoi ở giữa hai đường diềm dọc để trơn. Khoảng tường giữa hai trụ ốp có trang trí các hình thực vật. ở bên dưới là các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi, gợi đến chủ đề đã gặp ở bệ đá Mỹ Sơn E1. Tất cả tạo cho các tháp Hoà lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát.
Sau phong cánh Hoà lai là phong cách Đông Dương. Khu này do Indravarman II xây voà năm 877 ở giữa kinh đô Indrapura thờ laksmindralôkesvra. Kiến trúc thể hiện tư tưởng Phật giáo đại thừa. Nhóm này có tính chất lạ thường, thành cây quanh đền chu vi gần 1 km, có lẽ gồm cả dinh thự vua. ở trung tâm có nhiều kiến trúc gạch được phân bố trong các sân nối tiếp nhau theo trục Đông Tây, mỗi khu đều được rào và có cổng, hai bên có các thần Dvarapala canh giữ. Trong sân thứ nhất (sân hướng Tây) tức sân sau cùng từ phía Đông, có 18 điện thờ và một tháp trung tâm mở ra bốn hướng. Trước tháp có một bàn thờ lộng lẫy tựa lưng vào hậu bộ, trên đó có tượng Avalokitesvara. Trong sân thứ ba có một gian rộng lớn, trước kia có cột kèo, có đây là gian tụng niệm của các nhà sư. Trong tất cả các sân trên, những xtupa dàn thành các hành lang đã làm cho cảnh trí thêm hoàn chỉnh.
Tháp điện chính đã chỉ rõ sự tiến hoá từ Hoà lai, hoa văn lá ở dãy cửa tò vò uốn thẳng thành những hoa văn hình hoa hướng ra ngoài không chỉ ở chân mà còn chạy dài theo đường cong, tạo nên một trắc điện có nhiều nấc rất tiêu biểu, nhưng cũng rất nặng nề. Các cột ốp (mỗi mặt bốn) mang hình trang trí đảo ngược với Hoà lai, với đường băng trơn và lõm xuống ở giữa và hai bên là hai băng trang trí hoa lá. Nét trang trí hoa lá làm sống động tất cả các khối, các chi tiết. Nỗi "hoảng sợ chỗ trống" như nhiều người từng gán cho phong cách này đã gây ra sự phồn thịnh trù phú cho công trình kiến trúc và điêu khắc.
Bắt đầu vào khoảng năm 910, do sự tổng hợp và đồng hoá nhiều nền nghệ thuật như Giava, Khơme... nghệ thuật Chàm có một phản áng mạnh với tính nóng bỏng của Đông Dương và chuyển sang hướng mới tươi mát và trang nhã hơn - phong cách Mỹ Sơn A1. Phong cách này kéo dài suốt thế kỷ. Sự báo trước bằng Khương Mỹ và sự nở rộ bằng Mỹ Sơn A1 cao nhã và hàng loạt các kiến trúc khác ở Mỹ Sơn A8, A9, B3 - B8, B11 - B14, c1 - C5, D1 - D6. Giai đoạn này có thể tương ứng với triều đại của vua Indravarman III.
Tháp trung tâm của nóm A Mỹ Sơn (A1) chắc chắn là một trong những kiến trúc Chàm đẹp nhất và là kiến trúc gạch quan trọng nhất ở Đông Nam á, (hiện đã bị bom đạn Mỹ làm đổ). Thân chính của tháp vút cao lên hơn và các kiến trúc thượng tầng thu nhỏ lại tạo cho thân tháp có những dáng bay kỳ diệu. Trang trí thì cực kỳ tinh tế và kín đáo giúp cho người ta không bị rối mà trái lại dễ cảm nhận ra các khối trang trí trên tường. Những trụ ốp kéo dài ra theo đường thẳng đứng, phần giữa lòng trụ thu nhỏ lại chỉ còn là một kẽ hở đơn giản, bao quanh là hai diềm thẳng với một hoạ tiết trang trí hoa văn lá cuốn dài mô phỏng Giava. Những hình ngọn giáo bằng sa thạch ở góc các tầng đã tạo cho chúng một sắc thái tiêu biểu cho kiến trúc Chàm. Những kiến trúc, nhờ đó, mà như rực lửa hào quang trên nền trời. Hơn nữa trên các tầng còn có các toà kiến trúc thu nhỏ tôn thêm vẻ hài hoà cho kiến trúc chính.
Sau hàng loạt những biến động về chính trị, nào là bị người Việt ép ở phía Bắc, nào là bị người Khơme tấn công vào đô hộ suốt nhân dân năm, nghệ thuật Chàm không chỉ chuyển vào Bình Định mà còn chuyển sang hướng khác - hoành tráng bề thế về hình khối, đơn giản đến mức nghèo nàn về trang trí. Chính phong cách Ăngcovat đã ảnh hưởng mạnh đến nghệ thuật kiến trúc Chàm. So với Mỹ Sơn A1, tháp Chàm thời này mất đi vẻ tinh tể và trang nhã, nhưng đâu phải suy kém liên tiếp như nhiều nhà nghiên cứu thường nghĩ. Chúng tôi cho rằng, do chịu ảnh hưởng Khơme, do muốn ganh đua với vương triều Khơme các tháp Chàm như muốn biểu dương uy lực bề thế của mình. Do không làm được như ở ăngcovat, các vua Chàm đã đưa tất cả các tháp lên đồi cao, đã dùng mảng khối để tạo ra vóc dáng hùng vĩ cho kiến trúc. Vì vậy tuy không tinh tế, nhưng nhờ địa thế, nhờ mảng khối lớn, các thám Chàm vẫn gây ra một ấn tượng mạnh mẽ và khoẻ. Tất cả các thành phần kiến trúc đều đi vào mảng khối vòm cung thu lại và vọt lên thành hình mũi dáo, các tháp nhỏ trên các tầng như cuộn lại thành những khối đậm, khoẻ tuy có hơi tạo cho tháp có vẻ nặng nề, các trụ ốp mất đường rãnh giữa và thu vào thành một khối phẳng, mặt tường được tăng gân và được căng ra bằng đường gờ nổ chạy giữa, các môtíp đá điểm góc cũng vậy, cũng trở thành cách điệu... Tất cả đều có tác dụng gây ấn tượng hoành tráng từ xa Tháp Đồng, Tháp Vàng, Tháp Bá, Dương long (tỉnh Bình Định)... đều như trấn áp cả những khu vực xung quanh.
Phong cách kiến trúc này còn được kéo dài mãi cho đến những ngày cuối cùng của vương quốc cổ Champa.
Như vậy, với ba nhóm tháp tương ứng với ba giai đoạn lớn: nhóm tháp thế kỷ IX với hai phong cáh Hoà lai và Đông Dương. Nhóm tháp thế kỷ thứ X với phong cách Mỹ Sơn A1 và nhóm tháp thế kỷ IX - XIII với phong cách Bình Định. Ba phong cách đó toát lên ba vẻ đẹp và ba ngôn ngữ tạo hình chỉ đạo. nhóm đầu khoẻ khoắn trong trang trí và trong hình dáng cục mịch vuông vức, nhóm thứ hai thanh tú, nhóm thứ ba thì đường kẻ trong mảng khối.
Kết luận
Như vậy là, từ thế kỷ X - thế kỷ XVI ở Đông Nam á, dưới sự ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ không chỉ một loạt quốc gia ra đời, mà các công trình kiến trúc cũng mọc lên rải rác khắp vùng. Trong những công trình kiến trúc ấy thì tiêu biểu là Bôrôbuđu nổi lên như một hòn núi nhân tạo giữa vùng đồng bằng ke- du phì nhiêu với kiến trúc hết sức kỳ vĩ, cùng với một Ăngcovat với quy mô kiến trúc đồ sộ, một ngôi đền là hình ảnh của quả múi vũ trụ Theru, tháp được xây dựng bằng những phiến đá lớn, tạo ra một Ăngcovat rất to lớn và đồ sộ. Cùng với sự ra đời của Bôrôbuđu và Ăngcovat là các tháp Chàm. nếu như ở Bôrôbuđu và Ăngcovat tháp có dáng vẻ bề thế, chắc chắn nhờ chất liệu đá thì ở các tháp Chàm, kỹ thuật xây gạch và chất liệu gạch đã làm cho công trình kiến trúc trở nên cân bằng hơn, sáng sủa hơn và có nhịp điệu hơn. Khác với ở Bôrôbuđu và Ăngcovat ở tháp Chàm tính đường bề và hoành tráng của các cột ốp và các dải trang trí làm tăng thêm với nhân mạnh bằng những nét và khối nhịp nhàng, cân đối. Với ba phong cách của các tháp Chàm mới phong cách toát lên một vẻ đẹp riêng có nhóm đấu khoẻ khoắn trong trang trí và trong hình dáng cục mịch vuông vức. Nhóm thứ hai thanh tú, trang nhã trong đường nét và hài hoà, trong tỷ lệ, nhóm thứ ba thì đường bề trong mảng, khối, với sự kết hợp của ba phong cách trên đã làm toát lên vẻ đẹp riêng có của các tháp Chàm trong so sánh với sự kỳ vĩ và đồ sộ của các kiến trúc cổ Đông Nam á.
Đề tài:
hãy phân tích những nét đẹp riêng của
tháp chàm trong so sánh với những kiến
trúc cổ đông nam á
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60277.doc