Mục lục.
A. Phần mở đầu.
B. Phần nội dung.
Chương 1. khái quát tình hình chung.
1. khái niệm giáo dục.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Vai trò nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục.
2.2 Vai tròcác trường.
2.3 Vai trò gia đình và xã hội.
2.4 Vai trò sinh viên.
3. Những khó khăn.
3.1 Quản lý giáo dục.
3.2 Phương pháp dạy học.
3.3 Đội ngũ giảng viên.
3.4 Sinh viên.
3.5 Trương trình học.
Chương 2. Thực trạng.
1. Thành tựu chung.
1.1 Đầu tư cho giáo dục.
1.2 Du học.
2. Nguyên nhân.
2.1 Cơ sở vật chất.
2.2 Quản lý.
2.3 Phương pháp đào tạo.
2.4 Đội ngũ giảng viên.
2.5 Sinh viên.
2.6 Chương trình học.
2.7 Nguyên nhân khác.
Chương 3. Gỉai pháp kiến nghị.
1.1 Cơ quan quản lý.
1.2 Phương pháp dạy.
1.3 Giảng viên.
1.4 Sinh viên.
1.5 Hiện đại hóa giáo dục.
C kết luận.
D. Tài liệu tham khảo.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7605 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặc biệt là các chính sách ưu đãi cho SV. Đối với SV có hoàn cảnh khó khăn thì có biện pháp hỗ trợ về vốn (vay vốn, miễn giảm học phí), tặng học bổng đối với những SV có thành tích học tập tốt, lựa chọn những SV ưu tú gửi đi đào tạo ở nước ngoài... Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội, đến hết tháng 6/2010, đã có 1.915.774 học sinh, sinh viên của 1.723.782 hộ gia đình được vay vốn, với tổng dư nợ là 23.745,595 tỷ đồng. Trong đó, 786.739 sinh viên đại học được vay vốn, dư nợ 10.376,171 tỷ đồng. Từ ngày 26/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tăng mức cho vay ưu đãi từ 800.000 đ/sinh viên/tháng lên 860.000đ/sinh viên/tháng
2.2 vai trò của các trường
Còn về bản thân các trường để thu hút SV đã liên tục đổi mới trang thiết bị dạy và học, thay đổi phương pháp dạy, xây dựng các trương trình chuẩn quốc tế, liên kết đào tạo với nước ngoài, thuê giảng viên nước ngoài giỏi về giảng dạy, tuyển chọn đọi ngũ giảng viên có kinh nghiệm. đồng thời triển khai mạnh mẽ chủ trương đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội. Năm học vừa qua, các trường ĐH trong cả nước tiếp tục triển khai tích cực các văn bản thoả thuận đã ký kết với các các doanh nghiệp, các địa phương để đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, như: Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam, tập đoàn Hồng Hải (Đài Loan), Intel, Campal Electrronic Company, tập đoàn Dệt May, ... các doanh nghiệp đã hỗ trợ kinh phí, trang bị cho các trường cơ sở vật chất, trang thiết bị, tạo điều kiện cho sinh viên thực hành, thực tập và tiếp nhận sinh viên sau tốt nghiệp về làm việc tại doanh nghiệp...
2.3 vai trò của gia đình và xã hội .
Đối với gia đình và xã hội cũng rất quan tâm đến đầu tư cho giào dục. có nhiều gia đình mặc dù hoàn cảnh khó khăn vẫn cố gắng lo cho 2, thậm chi là ba người con đi học ĐH. Có nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã tổ chức hội chợ việc làm cho SV, tạo điều kiện làm thêm cho SV…
2.4 vai trò của sinh viên .
Về bản thân SV, do được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, gia đình và xã hội đã cố gắng học tập tốt và đạt được nhiều kết quả cao. Mới đây khi được tin giáo sư Ngô Bảo Châu đã đạt được giải thưởng toán học quốc tế Fields như một hiện tượng làm vinh quang không chỉ cho đất nước mà còn lá tấm gương cho các bạn SV học tập. có rất nhiều SV đã đoạt giải cao trong các kỳ thi olimpic quốc tế,chúng ta đã có bốn thí sinh xuất sắc đều đoạt giải Olimpic toán cũng như các cuộc thi Robocon vừa qua Việt Nam đạt giải nhì(năm 2010)…
3. Những khó khăn.
Trên đây là những thánh tựu rất đáng tự hào củ chúng ta. Vì vậy để nâng cao vị thế GD Việt Nam trên trường quốc tế và nâng cao chất lượng đào tạo, đòi hỏi chúng ta không chỉ xem xét khía cạnh đã làm được mà còn phải dũng cảm đối diện với những gì chưa làm được vì đó là vấn đề quan tâm của toàn xã hội hiện nay. Nếu như một vài năm gần đây, cả nước bừng tỉnh với con số hàng trăm nghìn thí sinh trượt đai học mỗi năm và phát hiện nguyên nhân chính là kết quả của căn bệnh thành tích thì từ đó đến nay chúng ta lai quá quen thuộc với nó. Hàng ngày chúng ta đã quá quen thuộc khi đề cập đến các căn bệnh trong GD như“bệnh thành tích”, “bệnh đối phó”, “bệnh đấu đá”, “bệnh thiếu trung thực” đang tràn lan khắp nơi, ở mọi người kể cả thầy lẫn trò mà hiện tượng quay cóp đang hoành hành, trở thành quốc nạn. Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương rất đúng đắn: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và cũng đã có những biện pháp cụ thể cải cách giáo dục. Tại sao ngành giáo dục vẫn loay hoay lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục? Tại sao khi ta cởi trói cho nông dân và cho các nhà doanh nghiệp, thì nông nghiệp và doanh nghiệp phát triển? Tại sao chúng ta không cởi trói cho giáo dục để giáo dục phát triển? nếu như một thầy thuốc thì cần chẩn đoán đúng bệnh và cho đúng thuốc, thuốc đắng giã tật, bệnh nặng đến đâu cũng chữa được. Phải thẳng thắn nhìn vào sự thật những căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam nói trên. Và phải biết trị tận căn, mới mong chất lượng giáo dục của Việt Nam được cải thiện.
3.1 Trong quản lý giáo dục.
Thời đại hiện nay, thế kỷ XXI, khoa học quản trị, nhất là quản trị chất lượng trở nên rất hệ trọng cho sự phát triển. Sau một thời gian đổi mới, tư tưởng bao cấp, duy ý chí, quản trị theo cảm tính vẫn còn tàn dư, khoa học quản trị chất lượng chưa thật sự đi vào nền nếp đời sống quản trị giáo dục từ cấp Bộ xuống đến cấp cơ sở giáo dục. Nếp sống văn hóa chất lượng chưa được hình thành. Lãnh đạo Bộ cũng như cấp trường vẫn chưa thật sự quan tâm đến khuyến cáo của các chuyên gia và thực sự chưa xây dựng được một đội ngũ chuyên gia hùng hậu có chuyên môn cao, có khả năng thuyết phục cao, nhất là thích ứng với hoàn cảnh đổi mới, vẫn thường quyết định theo cảm tính hoặc do duy ý chí. Như tại Thái Lan, đối với các trường công lập thì lo quản lý chặt chẽ về tài chánh, chuyên môn thì để trường hoàn toàn lo. Đối với các đại học tư, nhà nước lại không quản lý tài chánh, quản lý nhân sự lãnh đạo, song lại quản lý rất chặt chẽ về chuyên môn. Khi muốn mở một ngành mới, nhà nước quy định cứ 100 sinh viên thì phải có 3 tiến sĩ, 3 thạc sĩ, 1 cử nhân. Tất cả các trường đều phải tuân thủ, thượng tôn luật pháp.
Các khâu định hướng, mục tiêu, kế hoạch, thanh tra, sử dụng, quản lý nhân sự về chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu nhất quán ổn định. Tiêu chí chuyên môn, hiệu quả chưa thật sự được coi trọng.
3.2 Phương pháp dạy học
Hầu như các giảng viên chỉ quan tâm đến truyền đạt kiến thức và kiểm tra trí nhớ mà không quan tâm đến rèn luyện kỹ năng và nhân cách chuẩn bị vào đời, thường dùng phương pháp thuyết giảng là chủ yếu, truyền thụ kiến thức một cách thụ động, có nơi còn nạn thầy đọc trò ghi, có đổi mới thì lại chuyển từ "đọc chép sang nhìn chép”,chưa hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu hoặc không có biện pháp cụ thể khuyến khích sinh viên tự học, tự nghiên cứu.
Không lấy sinh viên làm trung tâm trong quá trình dạy học. Khi giảng viên áp dụng phương pháp chủ động, lại gặp quá nhiều khó khăn do hạn chế phương tiện thiết bị giảng dạy hay thư viện còn rất hạn chế hoặc sinh viên lại rất thụ động, có thói quen lười suy nghĩ, không làm theo hướng dẫn của giảng viên.
.Các trường đại học vẫn chưa thật sự quan tâm đến thực hành, thực tập. Bài tập càng nhiều, kỹ năng càng được rèn luyện, tính thưc hành, thực tiễn càng cao. Ngay giáo trình cũng thiếu vắng các bài tập. Thiếu hẳn một hệ thống trợ giảng (giảng viên) hay trợ giáo, kèm cặp (tutoring, sinh viên giỏi đàn anh phụ trách, được cấp tiền bồi dưỡng tượng trưng từng giờ hay từng buổi phụ việc).
Các trường đại học ở Việt Nam chưa quan tâm đến phương pháp học nhóm, các thư viện chưa bố trí những phòng học nhóm, chưa có trường nào bố trí rất nhiều bàn ghế để cho bất cứ sinh viên lúc chưa đến giờ học hay giờ trống đến ngồi gặp gỡ nhau. Các giảng viên cũng không bắt buộc những bài tập làm theo nhóm, chấm điểm theo nhóm.
3.3 Đội ngũ giảng viên.
Nếu học vị tiến sĩ là điều kiện chuẩn có khả năng dạy đại học thì hiện nay số lượng giảng viên có học vị này còn quá thấp so với khu vực ASEAN cũng như các nước phát triển trên thế giới. Dĩ nhiên cũng có các trường hợp ngoại lệ chỉ có bằng cử nhân nhưng vẫn là người giảng viên đại học giỏi, đầu ngành, được phong hàm giáo sư hay phó giáo sư. Đối với các nước trên thế giới, người có học vị cử nhân chỉ có thể làm trợ giảng mà không được phép dạy lý thuyết. Điều này ta chưa làm được, rõ ràng đã phản ánh chất lượng yếu kém của đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam.
Đội ngũ giảng viên đại học tại Việt Nam còn rất yếu kém về nghiên cứu sáng tạo, hiện chỉ mang tính đối phó, mang tính phong trào, làm lấy lệ, rất ít người say mê nghiên cứu và giành nhiều thời gian cho công tác nghiên cứu ngay cả những người có khả năng nghiên cứu
Các giảng viên phải lo kiếm sống, nên việc lo tròn trách nhiệm của một người giảng viên bình thường đã là điều rất khó, chứ chưa thể nghĩ tới trách nhiệm nghiên cứu hay đi xa hơn nữa là hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc ngay như những người có tinh thần trách nhiệm cao nhất.
Hiện tượng đấu đá không những phổ biến trong giới lãnh đạo để tranh quyền lực mà ngay trong các cán bộ giảng viên bình thường để tranh giành các danh hiệu thi đua, đã tạo ra một môi trường làm việc không được lành mạnh, làm sao công tác giảng dạy và nghiên cứu có thực chất.
3.4 Sinh viên
Rất ít các SV chọn học được ngành học và trường đại học thích hợp với sở trường và sở thích đích thực của mình và trường cũng không chọn được sinh viên mà mình muốn đào tạo. SV chỉ học đối phó, cốt lấy điểm, học cho qua, trở thành bệnh thành tích, bệnh hình thức, thiếu thực chất… ngay cả SV khá giỏi cũng sẵn sàng quay cóp nhất là đối với những môn học khó nhớ, lại quá nhiều giờ học, mà không phải ngành nào cũng như nhau khiến SV không thích học.
Theo PGS.TS Nguyễn Công Khanh, mỗi SV lớn lên trong môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và sự phong phú về phong cách học, một số SV học tập tích cực, chủ động, một số khác lại tỏ ra thụ động, thích im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi.
Có tới 64% SV chưa tìm được phương pháp học phù hợp với bản thân.
Có 55,9% SV thường suy ngẫm để tìm ra các phương pháp học phù hợp và hiệu quả khi học các loại tài liệu khác tuỳ theo mục đích và hoàn cảnh cụ thể.
Có 68,2% SV thường suy nghĩ về cách học, cách thức tự quản lí việc học của mình sao cho hiệu quả.
Có 50,9% SV cho rằng mình tự học hiệu quả nhờ biết kết hợp các phương pháp học khác nhau phù hợp với nhiệm vụ học tập cụ thể.
Nhưng chỉ có 29,2% SV cho rằng mình đã lập thời gian biểu học tập và cố gắng thực hiện đúng thời gian biểu; có 36% SV được khảo sát cho rằng mình đã tìm được những phương pháp học phù hợp với đặc điểm nhận thức của cá nhân và tất nhiên 64% sinh viên còn lại là mơ hồ về phương pháp học.
Về tinh thần tích cực và năng động của sinh viên, ông Khanh cũng cảm thấy rất đáng tiếc khi có tới 36,1% biểu lộ phong cách học thụ động: ngại nêu thắc mắc, ngại nói ra ý tưởng riêng của mình trong các cuộc thảo luận trên lớp; Có 22,9% SV chỉ thích giáo viên giảng cho mình nghe hơn là chủ động hỏi, nêu thắc mắc (chưa kể 42,7% SV cũng có quan điểm gần gần như vậy);
Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học của mình.
Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học;
Gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu;
41,1% cho rằng mình học chủ yếu từ vở ghi, giáo trình và ít có thời gian tìm 31,4% số SV được khảo sát cho rằng các chiến lược học của mình hướng vào việc nắm kiến thức hơn là phát triển các năng lực tư
Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập.
SV yếu nhất ở các nhóm: Kĩ năng thuyết trình, kĩ năng sử dụng máy vi tính, kĩ năng viết báo cáo tham luận, kĩ năng vận dụng vào thực tế.
SV mạnh hơn ở các nhóm kĩ năng: Phân tích và giải thích, giải quyết vấn đề, nghe ghi và hiểu bài giảng. (PGS.TS Nguyễn Công Khanh).
3.5 Trương trình đào tạo.
Định hướng, mục tiêu, phương pháp dạy học và phương thức lượng giá hầu như không thấy ghi trong chương trình hoặc rất sơ sài, phản ảnh sự thiếu chuyên môn trong việc soạn các chương trình dạy học, chưa được thiết thực, đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời kỳ đổi mới, hội nhập vào thế giới .
Cấu trúc chương trình nhiều điểm chưa hợp lý, chiếm quá nhiều thời gian lên lớp về lý thuyết, rất ít giờ bài tập, rất ít giờ hoạt động ngoại khoá tự học, tự nghiên cứu. Nhiều nội dung chương trình lạc hậu hay nặng nề, không còn phù hợp, tạo sự chán nản cho sinh viên, khiến sinh viên không đi sâu vào ngành học, nhất là năm đầu tiên có quá ít môn của ngành học.
3.6 Cơ sở vật chất.
Cơ sở vật chất đại học ở Việt Nam kể cả công lập và dân lập đều rất yếu kém, từ quy mô đến chất lượng, tính hiệu quả phục vụ sự giảng dạy cũng như học tập, nghiên cứu …, nhất là các trường đại học dân lập thì hầu như chưa có, bởi một vài trường có rồi chỉ là tạm bợ, chưa có thể là quy mô hay chất lượng của một trường đại học, nếu chưa muốn nói chưa được là một trường trung học phổ thông trung bình. Cũng có thể chỉ ở Việt Nam mới xảy ra tình trạng cơ sở vật chất trường đại học như vậy.
Chương 2. Khái quát tình hình chung.
Những thành tựu.
Trước hết là hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển kinh tế xã hội đất nước. Các đơn vị trực thuộc Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện 20 đề tài độc lập cấp Nhà nước, 34 nhiệm vụ nghiên cứu thuộc các Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước. Trong năm qua, các đơn vị cũng đã triển khai thực hiện 103 đề tài KH&CN trọng điểm cấp Bộ. Đã hỗ trợ gần 1.300 NCS thông qua các đề tài NCKH cấp cơ sở có nội dung gắn với luận án tiến sĩ từ nguồn kinh phí sự nghiệp KHCN. Đã có hơn 960 bài báo và CTKH đăng trên các tạp chí quốc tế, gần 4.100 bài báo, công trình đăng trên các tạp chí khoa học trong nước...
Một thành tựu đáng kể đến là có rất nhiều SV Việt Nam du học ở nước ngoài và có rất nhiều người tốt nghiệp loại xuất sắc, nhiều CTNC được đánh giá rất cao đưa GD Việt Nam sánh ngang với thế giới. theo thống kê của hội du học thì số SV Việt Nam du học tại mỹ đứng thứ 9 thế giới. dưới đây là thống kê NCKH của một số nước trong khu vực:
Bức tranh NCKH của 11 nước Đông Á (Hình 1) cho thấy không có bất cứ lý do nào để khước từ CBQT nếu chúng ta muốn đất nước sánh vai với các nước tiên tiến trong khu vực.
Hình 1
Tính trên một triệu dân, Singapore đứng đầu khu vực về CBQT, gấp 170 lần Việt Nam. Theo sát sau Singapore là Đài Loan, Hàn Quốc, HongKong và Nhật Bản, năm nước này tạo thành nhóm tiên tiến nhất trong khu vực. Dưới cùng trở lên là Indonesia, Philippines và Việt Nam. Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia thuộc nhóm giữa, nhưng vẫn vượt khá xa ba nước vừa nêu trong nhóm cuối. Năm 2008, 65 triệu dân Thái Lan công bố 3904 công trình, trong khi đó Việt Nam đông dân hơn (87 triệu) nhưng chỉ mới có 806 công trình. Thành tích CBQT của Việt Nam khá hơn Indonesia và Philippines, mặc dù thu nhập bình quân của hai nước này cao hơn ta gấp hai lần. Hơn nữa, trong nhiều năm liền, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao về công bố quốc tế, 16%/năm, ngang với tốc độ của Thái Lan và Malaysia.
1.1 Đầu tư cho giáo dục
Giáo sư Đào Trọng Thi, giám đốc Đại học Quốc gia HN đưa ra một so sánh : tỷ lệ đầu tư cho GD mới đạt 3 % GDP, trong khi tỉ lệ này ở Philippines là 4,2 %, ở Thái Lan là 5,4 % và ở Malaysia là 6,7 %. Một cách so sánh khác : Chính phủ hiện quy định mức trần thu học phí đối với các trường ĐH công lập là 2.9 triệu đồng/ năm/ SV, chỉ bằng khoảng 20 - 25 % định mức chi phí đào tạo thường xuyên cho một SV (định mức này ở hai ĐHQG là 9 360 000 đồng/ SV, các trường ĐH công lập khác vào khoảng 7 - 8,5 triệu đồng).
1.2 Tình hình du học
Giáo sư Phạm Phụ, ĐH Quốc gia TPHCM đưa ra con số : VN hiện nay đã có trên 20 000 SV đang du học tự túc ở nước ngoài, chi phí ước tính không dưới 200 triệu USD/năm. Nhà nước cũng đã có chương trình học bổng du học từ ngân sách quốc gia với tổng kinh phí 1 000 tỉ đồng trong 5 năm.
2. Nguyên nhân.
Do tư tưởng, con người, cách làm của thời bao cấp, thời chiến tranh không dễ gì một sớm một chiều có thể thay đổi ngay được. Do đời sống vật chất của giảng viên quá thấp, không ai sống bằng đồng lương, không ai có thể toàn tâm toàn ý và đủ thời gian hoàn thành trách nhiệm chuyên môn của họ
Do từ lâu, quan niệm, định hướng giáo dục, mục tiêu giáo dục rất mơ hồ, có thói quen lượng giá, đánh giá… trong các hệ thống giáo dục rất sai lầm. Ít quan tâm đế những mục tiêu về kỹ năng, thái độ, nhân cách chuẩn bị vào đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội
Đồng thời do nhà nước áp dụng một hệ thống thi cử, thi đấu, thi đua hết sức nặng nề khắp các cấp, khắp các đối tượng, cán bộ, thầy và trò cùng một số nguyên nhân khác tạo ra tinh thần khoa cử, thi đấu rất nặng nề trong xã hội, tạo áp lực học sinh phải học thêm, học tủ để đạt kết quả trước mắt với bất cứ giá nào kể cả kiệt sức, quay cóp… đưa tới cách dạy đối phó, học đối
2.1 Cơ sở vật chất.
Trang bị các phòng học, các thư viện, phòng thí nghiệm ở các Đại học rất yếu kém, vừa không cập nhật, vừa không có hệ thống. Vào mạng các Trường Đại học nước ngoài, chưa nói các nước Âu - Mỹ, chỉ riêng các Đại học lớn ở Nga, Trung Quốc - các nước vừa chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, họ cũng có nhiều thư viện điện tử nhiều kho dữ liệu rất phong phú cho Sinh viên, Giảng viên sử dụng. Chúng ta không nên quên bài học về nông nghiệp. Từ một nước thiếu gạo, chỉ cần thay đổi chính sách hợp lý, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới.
Nhà nước cũng như xã hội chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng các trường học, tương xứng với chủ trương GD là quốc sách hàng đầu hay tinh thần hiếu học của người Việt Nam. Chưa quan tâm đến cơ sở vật chất phục vụ phương cách học tập hiện đại: học nhóm, phương pháp dạy và học giao tiếp…
2.2 Quản lý.
Do tàn dư của cơ chế quản lý bao cấp, cơ cấu nhân sự bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu hiệu quả của thời kỳ đổi mới. Do chức năng chồng chéo, lẫn lộn, trách nhiệm không rõ ràng. Do thiếu chuyên môn, thiếu đào tạo, bồi dưỡng khoa học kỹ thuật quản trị mới từ cấp Bộ đến cấp trường đại học.
2.3 Phương pháp đào tạo.
Do ảnh hưởng từ lâu của lối dạy học nặng lý thuyết, mang tính kinh viện. Do ảnh hưởng từ lâu cách kiểm tra, cách thi nặng về kiến thức, cách đánh giá về kết quả hơn về cách đánh giá quá trình học tập. Cách đánh giá, cách thi nào sẽ có cách học đó. Do ảnh hưởng từ lâu lối giáo dục đặt nặng về điểm số, đặt nặng thành tích, không quan tâm đến sự hứng thú và thực tiễn, trò lo học đối phó để kiếm điểm kể cả quay cóp tràn lan.
2.4 Đội ngũ giáo viên.
Do lịch sử thời bao cấp và thời chiến tranh để lại. Tình trạng thầy không ra thầy, trò không ra trò, trường không ra trường, lớp không ra lớp là chúng ta hiểu được và đành chấp nhận trong hoàn cảnh lịch sử đó, vì yêu cầu của đấu tranh, một mất một còn, không thể nào khác! Mà hiện nay trong thời kỳ đổi mới và hội nhập với khu vực và thế giới, yêu cầu hoàn toàn khác, cách làm phải theo quy luật hoàn toàn khác, nếu ta muốn tồn tại và phát triển.
Do đời sống vật chất của giảng viên quá thấp, không ai sống bằng đồng lương, không ai có thể toàn tâm toàn ý và đủ thời gian hoàn thành trách nhiệm chuyên môn của họ. Không thể đòi hỏi nhiều hơn nữa nơi họ vì họ đã chịu đựng như thế là quá phi thường, quá sức chịu đựng của họ rồi, nhất là đối với những người có khả năng và trách nhiệm cao!
2.5 Sinh viên.
Do từ lâu, quan niệm, định hướng giáo dục, mục tiêu giáo dục rất mơ hồ, có thói quen lượng giá, đánh giá, thi, kiểm tra trong các hệ thống giáo dục rất sai lầm, chỉ theo lối đánh giá kết quả bằng điểm số mà chỉ về kiến thức, không đánh giá theo quá trình học tập, ít quan tâm đế những mục tiêu về kỹ năng, thái độ, nhân cách chuẩn bị vào đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Ngay cách đánh giá đạo đức của sinh viên vừa mới ban hành cũng nặng về điểm số và không giao trách nhiệm cho các giảng viên đánh giá nhận xét!
Đồng thời do nhà nước áp dụng một hệ thống thi cử, thi đấu, thi đua hết sức nặng nề khắp các cấp, khắp các đối tượng, cán bộ, thầy và trò cùng một số nguyên nhân khác tạo ra tinh thần khoa cử, thi đấu rất nặng nề trong xã hội, tạo áp lực học sinh phải học thêm, học tủ để đạt kết quả trước mắt với bất cứ giá nào kể cả kiệt sức, quay cóp… đưa tới cách dạy đối phó, học đối phó.
Do giáo dục phổ thông chưa chuẩn bị tốt, hướng dẫn rèn luyện để học sinh lựa chọn ngành học, trường học phù hợp và chuẩn bị cách học ở đại học.
2.6 Chương trình đào tạo.
Do chưa thật mạnh dạn đổi mới, còn ảnh hưởng tư duy giáo dục thời bao cấp. Do chưa đảm bảo những nguyên tắc về định hướng và mục tiêu, từ đó, nội dung và phương pháp giảng dạy và cách thức lượng giá phải thể hiện. Do Bộ và các trường đại học chưa chuẩn bị tốt, xây dựng, đào tạo đội ngũ các chuyên gia soạn chương trình và triển khai tốt kế hoạch soạn chương trình đào tạo đại học.
2.7 nguyên nhân khác
Trong lĩnh vực GD&ĐT ở nước ta đang xảy ra một nghịch lý: Là một nước thuộc loại nghèo nhất thế giới, chúng ta đang có hàng nghìn sinh viên tự túc du học ở nước ngoài. Họ là những con nhà giàu có chăng? Chỉ đúng một phần.
Có nhiều bậc cha mẹ đã và đang thế chấp nhà cửa, vay tiền và sống đạm bạc để cho con đi du học. Tại sao? Vì họ có nhu cầu cho con học đại học và thực tế con cái họ có khả năng học đại học ở nước ngoài. Nhưng ở ta, họ không được chấp nhận. Cái quy trình đi du học của nhiều người diễn ra như sau:
Thi đại học - trượt - Thi lại - Thi lại trượt - Đi du học
Điều đó cho thấy, đi du học đối với họ không phải là sự lựa chọn mà là sự bắt buộc. Nếu mỗi SV đi du học tự túc ở nước ngoài phải chi mỗi năm 10.000 USD thì số ngoại tệ của đất nước ta chảy ra ngoài hàng năm lên tới hàng chục triệu USD. Số tiền đó thật là đáng quý đối với một nước nghèo như nước ta. Nó có thể sẽ cao hơn số tiền ngân sách mà nhà nước chi cho ngành GD&ĐT.
Chương 3. Gỉai pháp và kiến nghị
Đã ít lâu nay, khi bàn về giáo dục ở nước ta hiện nay, hình như nhiều người thường thống nhất với nhau: Thôi, không nên nói tình hình nữa, tình hình giáo dục, những căn bệnh của giáo dục đang khiến cả xã hội không thể yên tâm, thì ai cũng biết và nhận ra cả rồi. Vấn đề bây giờ là cần tìm giải pháp nào để thay đổi được.Có thể nói rằng nguyên nhân đầu tiên, sai lầm đầu tiên và bao trùm là ở chính vấn đề quan trọng nhất, cơ bản nhất của giáo dục: ‘triết ly giáo dục’. Chúng ta định xây dựng và thực hiện nền giáo dục này để làm gì? Thật vậy, đang có vấn đề, có vấn đề lớn ở ngay câu hỏi cơ bản: bằng nền giáo dục này, chúng ta muốn đào tạo nên những con người như thế nào đây? Chúng ta định đào tạo nên những con người tự do, biết suy nghĩ và có suy nghĩ độc lập, từ đó là những con người sáng tạo, cho một xã hội tự do và sáng tạo, hay đào tạo nên những con người biết chấp hành, vâng lời, phục tùng, hết sức dễ bảo, cho một xã hội trong đó mọi sự đều được chỉ huy tập trung răm rắp, một xã hội trong đó có ai đấy, một lực lượng hay một tổ chức, một người hay một số người nào đấy suy nghĩ sẵn mọi điều cho mọi người và mọi người cứ thế học thuộc lòng và làm theo. Trong một bài viết gần đây, giáo sư Hoàng Tuỵ có nói: “Để khắc phục khó khăn hiện nay, chỉ có một lối thoát duy nhất là hiện đại hóa giáo dục”. Tôi hoàn toàn đồng tình với phương hướng đó. Nhưng thế nào là hiện đại hóa giáo dục, thế nào là một nền giáo dục hiện đại? Tôi nghĩ rằng một nền giáo dục hiện đại trước hết là ở trong tính hiện đại của triết lý giáo dục mà nó đeo đuổi, biết và dám độc lập suy nghĩ, biết cách tự mình chiếm lĩnh lấy kiến thức, tự mình đi khám phá ra chân lý, và từ đó làm chủ cuộc sống của mình, của đất nước...
Chất lượng GDĐH tùy thuộc vào những yếu tố, thứ tự theo tình trạng thực tế yếu kém nổi trội và trong tầm tay khả thi mà chúng ta cần phải ưu tiên giải quyết như sau:
- Quản trị.
- Phương pháp dạy học và phương tiện dạy học.
- Thầy.
- Trò.
- Chương trình.
- Cơ sở vật chất của trường.
1.1 Cơ quan quản lý
Đổi mới tư tưởng, cơ chế, cung cách quản trị mới, chuyên môn hóa, lấy hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xã hội là mục tiêu, tiêu chí hàng đầu.
Có kế hoạch cụ thể xây dựng văn hóa chất lượng vào từng trường đại học. Mỗi trường đại học có một hiệu phó phụ trách về CLĐT, về kiểm định CLĐT.
Bộ cũng như mỗi trường đại học nhanh chóng xây dựng đội ngũ chuyên gia GD, với học vị tiến sĩ về quản trị GDĐH trong các lĩnh vực quản trị học đường, soạn chương trình, công tác sinh viên, tư vấn sinh, phương pháp dạy học…
1.2 Phương pháp dạy
Đổi mới tư tưởng giáo dục, lấy SV làm trung tâm trong quá trình dạy học, phát huy tính tích cực, tính chủ động tự học trong học tập và nghiên cứu đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Quy chế chuyên môn, giảng dạy được quy định rất cụ thể: buộc phải đề cương môn học rất kỹ càng và đề cương bài giảng với những yêu cầu đổi mới cụ thể, quy định rất rõ ràng các biện pháp quản lý, giám sát chuyên môn quy trình triển khai các đề cương môn học và đề cương bài giảng đến từng sinh viên. Xây dựng nghiêm túc và có hiệu quả chế độ trợ giảng, trợ giáo…
Cấu trúc chương trình của từng môn học và giáo trình, đề cương bài giảng phải có các bài tập. Một buổi học lý thuyết phải được bố trí 1 buổi bài tập.
Các trường đại học phải đẩy mạnh kế hoạch học nhóm, lao động nhóm như là biện pháp quản lý chất lượng đào tạo từ dưới cơ sở SV lên trên, thể hiện quản trị chất lượng đồng bộ (TQM) để rèn luyện sinh viên khả năng “leadership” và cách làm việc theo “teamwork” mà Nhật và các nước phát triển đang áp dụng có hiệu quả trong sản xuất.
Xây dựng thư viện hiện đại, điện tử, truy cập Internet, có cả phòng học nhóm và phòng multimedia.
Đổi mới cách đánh giá, kiểm tra, đánh giá quá trình học tập và đánh giá kết quả học tập bằng nhiều phương pháp khác nhau từ trắc nghiệm khách quan đến luận đề, làm bài tập nghiên cứu… Tổ chức thường xuyên hội thảo đổi mới phương pháp dạy học.
Đẩy mạnh kế hoạch cho đi tu nghiệp hay đào tạo các chuyên gia về phương pháp dạy học hiện đại. Trước mắt mời các chuyên gia nước ngoài đến tập huấn hay bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học.
1.3 Chất lượng giảng viên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.doc