MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ GATS 3
1. Các định nghĩa 3
1.1 Khái niệm Dịch vụ theo GATS 3
1.2 Thương mại dịch vụ 3
2. Nội dung chủ yếu của hiệp định GATS 4
2.1 Cấu trúc và phạm vi của GATS 4
2.2 Các nguyên tắc cơ bản trong GATS 5
2.3 Các cam kết cụ thể trong GATS 6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ GATS VÀO VIỆT NAM 7
1. Cam kết chung của Việt Nam dựa trên hiệp định GATS 7
1.1 Hạn chế về tiếp cận thị trường 7
1.2 Hạn chế về đối xử quốc gia 8
2. Cam kết của Việt Nam & tác động của cam kết đối với một số ngành dịch vụ ở Việt Nam 8
2.1 Dịch vụ phân phối 8
2.2 Dịch vụ ngân hàng ( thuộc nhóm dịch vụ tài chính) 10
2.3 Dịch vụ vận tải biển ( thuộc nhóm dịch vụ vận tải) 11
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN GATS TẠI VIỆT NAM 14
1. Giải pháp vĩ mô 14
1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật 14
1.2 Phát triển thương mại dịch vụ song song với phát triển sản xuất hàng hóa 14
2. Giải pháp vi mô 15
2.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp 15
2.2 Phát triển kiến thức, kỹ năng cho ngành nhân lực 16
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6813 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thức cung ứng dịch vụ theo GATS khá rõ ràng và dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thành viên trong việc đưa ra cam kết trong các biểu cam kết cụ thể của riêng thành viên đó.
Nội dung chủ yếu của hiệp định GATS
Cấu trúc và phạm vi của GATS
Về mặt cấu trúc, Hiệp định chung về thương mại dịch GATS được chia làm ba phần chính. Phần I là Hiệp định chính bao gồm 29 điều quy định, quy tắc và nghĩa vụ, phần II là phần phụ lục với các quy định riêng rẽ cho từng lĩnh vực, phần III là các cam kết cụ thể của các nước tham gia vòng đàm phán Urugoay, đưa ra các điều kiện để tiếp nhận dịch vụ của các nước này.
Về mặt phạm vi, Hiệp định GATS được áp dụng đối với các biện pháp tác động đến thương mại dịch vụ của các thành viên theo bốn phương thức cung ứng đã nêu ở trên. Ngoại lệ của GATS sẽ là các dịch vụ được cung ứng để thi hành thẩm quyền của chính phủ và một số dịch vụ thuộc lĩnh vực vận tải hàng không ( ví dụ như quyền lưu không và dịch vụ liên quan đến quyền lưu không); hay các biện pháp liên quan đến tiếp cận thị trường lao động, công việc vĩnh viễn, di dân và cư trú nước ngoài. Những biện pháp mà GATS nêu ra là bất kỳ biện pháp nào của một nước thành viên, cho dù dưới hình thức một luật lệ, một quy định, một quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động quản lý hành chính hay bất kỳ một hình thức nào khác. Các biện pháp có thể do Chính phủ, các cơ quan trung ương, vùng hay địa phương áp dụng hoặc do các cơ quan phi chính phủ áp dụng khi thực hiện các quyền hạn mà các cơ quan chính phủ, trung ương, vùng hay địa phương giao cho.
Các nguyên tắc cơ bản trong GATS
GATS đưa ra rất nhiều nguyên tắc, trong đó nguyên tắc đối xử tối huệ quốc ( MFN), nguyên tắc tính minh bạch, và các nguyên tắc liên quan đến doanh nghiệp độc quyền là những nguyên tắc cơ bản và đáng được lưu tâm.
Nguyên tắc về đối xử tối huệ quốc ( MFN) nêu rõ “mỗi thành viên phải ngay lập tức và vô điều kiện dành cho dịch vụ và những nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác”. Nguyên tắc này được hiểu là để ngăn cản bất kỳ một Thành viên nào dành cho các nước lân cận những lợi thế nhằm tạo thuận lợi cho việc trao đổi dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trong phạm vi giới hạn của vùng biên giới. Ngoại lệ của nguyên tắc này là các hiệp định ưu đãi song phương hay các hiệp định ưu đãi trong khuôn khổ hợp tác khu vực.
Nguyên tắc về tính minh bạch cũng là một trong những nguyên tắc mà GATS đưa ra nhằm đảm bảo môi trường thương mại tự do, lành mạnh cho tất cả chủ thể tham gia kinh doanh. Các thông tin về luật pháp, chính sách điều tiết thương mại dịch vụ đều phải được các thành viên công bố, hay bất kỳ bổ sung, sửa đổi về luật, thủ tục hành chính có tác động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể theo Hiệp định này các nước thành viên phải nhanh chóng và ít nhất mỗi năm một lần thông báo cho Hội đồng thương mại dịch vụ. Ngoài ra các thành viên phải thành lập các điểm thông báo với thời hạn là 2 năm kể từ ngày hiệu lực để cung cấp thông tin cho các thành viên khác khi họ có yêu cầu.
Nguyên tắc tiếp theo là các nguyên tắc liên quan đến độc quyền và các doanh nghiệp kinh doanh độc quyền. Theo đó mỗi thành viên phải đảm bảo rằng bất kỳ nhà cung cấp dịch vụ độc quyền nào trên lãnh thổ của mình không hành động trái với các nghĩa vụ của Thành viên đó theo quy định tại Điều II của hiệp định và các cam kết cụ thể, khi cung cấp dịch vụ độc quyền trên thị trường liên quan. Ngoài ra, nếu một nhà cung cấp dịch vụ độc quyền cạnh tranh, trực tiếp hoặc thông qua các công ty trực thuộc trong việc cung cấp dich vụ ngoài phạm vi độc quyền của mình và thuộc các cam kết cụ thể của Thành viên đó, thì Thành viên đó phải đảm bảo rằng nhà cung cấp dịch vụ sẽ không lạm dụng vị trí độc quyền của họ để tiến hành hoạt động trái với các cam kết trên lãnh thổ của Thành viên này. Hơn thế nữa, các nước thành viên phải thiết lập các thủ tục hành chính và nguyên tắc tố tụng minh bạch, khách quan đối với các doanh nghiệp dịch vụ độc quyền.
Các cam kết cụ thể trong GATS
Cam kết đầu tiên trong GATS là cam kết về tiếp cận thị trường, trong đó mỗi Thành viên phải dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các Thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử theo những điều kiện, điều khoản và hạn chế đã được thỏa thuận và quy định tại Danh mục cam kết cụ thể của mình. Tuy nhiên việc cam kết tiếp cận thị trường chỉ có ý nghĩa đối với sáu biện pháp được đề cập đến trong hiệp định. Đó là những biện pháp liên quan đến số lượng các nhà cung cấp dịch vụ, giá trị của các hoạt động dịch vụ được thực hiện, số lượng hoạt động dịch vụ được thực hiện, số lượng nhân viên, hình thức pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ và mức độ góp vốn trong liên doanh…
Cam kết thứ hai trong GATS là cam kết về đối xử quốc gia (NT). mỗi Thành viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của mình. Trừ khi có cam kết khác trong biểu cam kết, các thành viên không được phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Trên thực tế, trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, mức độ cam kết mở cửa còn dè dặt và có nhiều hạn chết trong từng ngành, phân ngành dịch vụ đối vơi từng nước thành viên. Vì vậy nguyên tắc NT áp dụng rất hạn chế, phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài với nhà cung cấp dịch vụ trong nước còn tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau.
Ngoài ra GATS còn có quy định về những cam kết bổ sung, liệt kê các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp và tiêu dùng dịch vụ nhưng không thuộc về hạn chế tiếp cận thị trường hay hạn chế đối xử quốc gia.
Dựa trên nhưng quy định đó của GATS, Việt Nam đã đưa ra bảng cam kết cụ thể của riêng mình trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ GATS VÀO VIỆT NAM
Cam kết chung của Việt Nam dựa trên hiệp định GATS
Dựa trên hiệp định GATS, Việt Nam cũng đưa ra biểu cam kết riêng cho các ngành, nhóm ngành dịch vụ của mình trong đó các dịch vụ được chia thành 11 ngành, 110 phân ngành. Phần cam kết nề của Việt Nam có nội dung như sau:
Hạn chế về tiếp cận thị trường
Việt Nam chưa có quy định gì với phương thức (1) và (2). Điều này hàm ý nếu Việt Nam không duy trì các quy định hoặc, biện pháp hạn chế áp dụng chung cho 2 phương thức này. Biện pháp hạn chế nếu có sẽ được nêu tại cam kết của từng ngành, phân ngành.
Nếu dịch vụ được cung ứng theo phương thức (3), Việt Nam không hạn chế nếu không có các quy định nào khác trong biểu cam kết cụ thể. Các doanh nghiệp được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nếu không có cam kết gì khác, trong đó hiện diện dưới hình thức đại diện thương mại không được tham gia vào các hoạt động sinh lợi trực tiếp. Việt Nam chưa cam kết việc thành lập chi nhánh trừ khi việc cho phép đó được quy định trong biểu cam kết cụ thể (ví dụ dịch vụ ngân hàng hay dịch vụ máy tính được). Các doanh nghiệp có giấy phép đã được cấp ra trước ngày cam kết đưa ra được phép bảo lưu hiện trạng, tức là không bị thu hẹp lại những gì đã được cho phép trước ngày gia nhập WTO.
Trong khi về việc cho thuế đất đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá chung chung thì vấn đề góp vốn được quy định khá chi tiết. Trừ khi có quy định khác, việc góp vốn cổ phần của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam không được vượt quá 30% tổng số vốn điều lệ của doanh nghiếp đó. Sau 1 năm gia nhập, hạn chế về tỷ lệ góp vốn sẽ bị bãi bỏ, trừ việc góp vốn mua cổ phần của các ngân hàng thương mại cổ phần và với những ngành cam kết trong biểu cam kết này.
Đối với phương thức (4) chúng ta chưa cam kết ngoài trừ các biện pháp liên quan đến nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các thể nhân là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, nhân sự khác, người chào bán dịch vụ và người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại và người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng. Trong đó chỉ những cá nhân là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp và các nhân sự khác ( thông thường là nhân sự được thuê để làm chức vụ quản lý trong công ty) được lưu trú tối đa 3 năm tại Việt Nam và có thể được gia hạn thêm thời gian lưu trú. Các đối tượng còn lại thì chỉ được lưu trú tối đa 90 ngày tại Việt Nam và không được gia hạn thêm thời gian lưu trú. Trình độ chuyên môn, số lượng nhân sự nước ngoài trong từng trường hợp và một số điều kiện khác cũng được quy định rõ ràng, đầy đủ trong biểu cam kết.
Hạn chế về đối xử quốc gia
Việt Nam không có quy định gì đối với phương thức (1) và (2); không hạn chế đối với phương thức (3) ngoài trừ các khoản trợ cấp có thể chỉ dành cho các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam, nghĩa là các pháp nhân được thành lập trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc một vùng của Việt Nam. Việc dành cho trợ cấp một lần để thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cổ phần hóa không bị coi là vi phạm cam kết này. Tuy nhiên đối với các khoản trợ cấp dành cho nghiên cứu và phát triển, y tế, giáo dục và nghe nhìn, các hoạt động nâng cao phúc lợi và tạo công ăn việc làm cho đồng bào thiểu số thì Việt Nam vẫn chưa có cam kết. Phương thức (4) chúng ta cũng chưa cam kết trừ các biện pháp đã nêu tại cột tiếp cận thị trường.
Cam kết cụ thể của Việt Nam & tác động của cam kết đối với một số ngành dịch vụ ở Việt Nam
Dịch vụ phân phối
Nội dung cam kết cụ thể
Đối với dịch vụ phân phối, Việt Nam cam kết đối với các loại hình dịch vụ là dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, bán lẻ và nhượng quyền. Theo nội dung cam kết, nhà phân phối nước ngoài phải chịu hạn chế về diện mặt hàng được phép phân phối ở Việt Nam. Hạn chế này có thể được chia thành hai nhóm danh mục. Một là danh mục hạn chế lâu dài bao gồm thuốc lá và xì gà, báo và tạp chí, vật phẩm ghi hình, kim loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ và dầu đã qua chế biến, gạo, đường mía và đường củ cải. Đây là danh mục hàng nhạy cảm mà chính phủ Việt Nam chưa có ý định cho nước ngoài tham gia phân phối tại Việt Nam, do đó các nhà phần phối nước ngoài không được phép làm đại lý cũng như không được thành lập các công ty bán lẻ để phân phối các mặt hàng này. Thứ hai là danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ trình cụ thể, các mặt hàng này được quy định tại cột hạn chế về tiếp cận thị trường mà nhà phân phối nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được phép phân phối tại Việt Nam trong một khoảng thời gian nhất định kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO bao gồm có xi măng và clinke, lốp ( trừ lốp máy bay), giấy, máy kéo, phương tiện cơ giới, ôtô con và xe máy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón. Theo lộ trình tới năm 2010 danh mục hạn chế thứ hai này sẽ được bãi bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên việc mở cửa cho danh mục hạn chế có lộ trình này không được áp dụng đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại.
Ngoại trừ một số nhóm có quy định trong biểu, Việt Nam chưa có cam kết gì với phương thức (1) với phương thức (1). Còn đối với vấn đề vốn góp, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thành lập với tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đến ngày 1/1/2008, họ sẽ được quyền tham gia vốn trong liên doanh ở bất kỳ tỳ lệ nào nhỏ hơn 100%, và đến 1/1/2009 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam. Đặc biệt từ 1/1/2010 doanh nghiệp nhượng quyền được phép hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền sẽ được thành lập chi nhánh với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Bên cạnh đó, việc thành lập cơ sở bán lẻ của các doanh nghiệp phải được dựa trên nhu cầu kinh tế với mộ số tiêu chí đánh giá như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện tại một khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý.
Tác động của cam kết đối với ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam
Tham gia mở cửa trong thị trường phân phối đã đem lại không ít thuận lợi cho Việt Nam. Vị thế của Việt Nam trên bản đồ bán lẻ toàn cầu trong những năm gần đây có tăng (tăng 2 bậc từ năm 2009 đến năm 2010). Việc giữ được vị thế tốt này là do Việt Nam mức độ tăng trưởng kinh tế tốt, dân số đông đảm bảo cho sức cầu duy trì, đồng thời đặc điểm khác biệt của người tiêu dùng Việt Nam trong giai đoạn này là tăng tiêu dùng cá nhân trong khi kinh tế khủng hoảng đã góp phần duy trì cầu nội địa tốt đảm bảo cho ngành phân phối phát triển.
Từ ngày 1/1/2009, Chính phủ Việt Nam đã chính thức mở cửa ngành bán lẻ cho các công ty nước ngoài, như một phần của cam kết khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, đến hết năm 2009, do suy thoái kinh tế toàn cầu, những nhà bản lẻ quốc tế lớn đều hoãn kế hoạch thâm nhập thị trường Việt Nam. Điều này cũng tạo điều kiện nhiều hơn cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có thời gian chuẩn bị và ổn định hệ thống. Trong nửa sau của năm 2009 đã có một số chuyển động đáng chú ý của một số công ty nước ngoài lớn. Circle K mở cửa hàng tiện lợi đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh trong tháng sáu, và công bố mở rộng hơn nữa mạng lưới của mình trong các năm tiếp theo. Trong một bối cảnh khác nhau, Aeon - một người khổng lồ Nhật Bản - cũng đàm phán với Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép đầu tư. Dự đoán rằng các nhà bán lẻ quốc tế sẽ thâm nhập rất nhanh vào Việt Nam. Trong vài năm tới, ngành công nghiệp bán lẻ của Việt Nam hứa hẹn sẽ có sự tham gia đầy đủ của các công ty quốc tế. Kênh hiện đại như siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng tiện lợi đều sẽ phát triển nóng. Từ đó sẽ giúp ra tăng doanh thu và số điểm bán hàng của từng loại kênh trong hệ thống phân phối.
Tuy nhiên các nhà phân phối Việt Nam có thể sẽ vấp phải những khó khăn khi đối mặt với những doanh nghiệp phân phối nước ngoài có tiềm lực mạnh về tài chính. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có những chiến lược cụ thể, tận dụng thời cơ khi các nhà phân phối nước ngoài chưa tham gia nhiều vào thị trường để củng cố lại tiềm lực cho mình.
Dịch vụ ngân hàng ( thuộc nhóm dịch vụ tài chính)
Nội dung cam kết cụ thể
Trong nhóm dịch vụ tài chính có ba nhóm lớn đó là dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác, dịch vụ chứng khoán. Trong ba nhóm dịch vụ nhỏ được nhắc đến này thì dịch vụ ngân hàng có nhiều điểm rất đáng lưu ý. Những phân ngành của dịch vụ ngân hàng cam kết trong biểu được liệt kê khá cụ thể. Qua đó ta thấy Việt Nam hiện nay chưa cam kết đối với phương thức (1) ngoại trừ việc cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính cũng như các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác; và đối với các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác đối với tất cả các dịch vụ ngân hàng chủ yếu, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, nghiên cứu và tư vấn đầu tư và danh mục đầu tư về mua lại và về tái cơ cấu và chiến lược doanh nghiệp . Các loại hình thức khác như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán và chuyển tiền không được cam kết theo phương thức này.
Theo nội dung cam kết, các ngân hàng nước ngoài được phép thành lập các hiện diện thương mại tại Việt Nam. Khi mới gia nhập các hiện diện thương mại này sẽ bị giới hạn về tỷ lệ góp vốn, nhưng kể từ ngày 1/4/2008 được phép thành lập ngân hang 100% vốn đầu tư nước ngoài. Để được thành lập chi nhánh thương mại hay, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài phải đạt được điều kiện nhất định về số lượng tài sản tùy theo loại hình và phương thức hoạt động của công ty. Trong vòng 5 năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO , các chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải chịu hạn chế về tỷ lệ huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quy định về tín dụng. Đến ngày 1/1/2011 thì tỷ lệ vốn huy động sẽ được hưởng đối xử quốc gia đầy đủ, tuy nhiên các chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài vẫn chưa được thành lập các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở chi nhánh của mình. Giống với quy định trong phần cam kết chung, phần đóng góp cổ phần của doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được phép nắm giữ tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó trừ khi luật pháp Việt Nam có các quy định khác hay được sự cho phép của các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam. Như vậy, ngoài những chính sách mở cửa thông thoáng cho ngành dịch vụ ngân hàng, Việt Nam cũng đưa ra một số hạn chế nhất định nhằm bảo vệ cho các ngân hàng trong nước.
Tác động của cam kết đối với dịch vụ Ngân hàng ở Việt Nam
Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của Việt Nam khá chặt chẽ do vậy mức độ ảnh hưởng của cam kết này là không quá lớn. Tất nhiên nó cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới ngành dịch vụ Ngân hàng tại Việt Nam. Trước hết, các cam kết mở cửa thị trường ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, từ đó thị trường tài chính ngân hàng sẽ ngày càng trở nên sôi động và hiệu quả hơn. Sức ép cạnh tranh buộc các ngân hàng trong nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo được lợi thế với các ngân hàng nước ngoài.
Tuy nhiên, với điểm yếu là các ngân hàng trong nước có qui mô nhỏ, nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc tế còn cao, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước; các sản phẩm dịch vụ còn chưa đa dạng và chất lượng dịch vụ chưa cao nên việc tham gia ngày càng nhiều của các ngân hàng nước ngoài có qui mô vốn lớn, năng lực cạnh tranh cao và nắm giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia sẽ chứa đựng rủi ro tiềm tàng tới sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống tài chính; tính liêm chính của hệ thống trước các hiện tượng rửa tiền và tài trợ khủng bố. Chính vì vậy, Việt Nam luôn phải thận trọng trong tiến trình mở cửa, tự do hóa hoạt động của thị trường tài chính.
Dịch vụ vận tải biển ( thuộc nhóm dịch vụ vận tải)
Nội dung cam kết cụ thể
Theo cam kết, công ty vận tải biển nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa quốc tế (xuất nhập khẩu) sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào và được đối xử công bằng như các công ty vận tải Việt Nam. Ngoài ra, các công ty này được sử dụng các dịch vụ tại cảng biển Việt Nam dựa trên các điều kiện hợp lý và không phân biệt đối xử , tuân thủ nguyên tắc đến trước phục vụ trước.
Đối với các hiện diện thương mại nước ngoài khác tại Việt Nam để cung cấp dịch vụ vận tải thì có những quy định cụ thể như sau. Các công ty vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam, sau 2 năm kể từ ngày gia nhập sẽ được thành lập liên doanh với phần đóng góp không vượt quá 49% - được phép vận hành để vận chuyển hàng hóa và hành khách quốc tế. Các công ty này phải chịu sự kiểm soát về số lượng thuyền viên nước ngoài. Các hình thức hiện diện thương mại nước ngoài để cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế đều phải chịu sự hạn chế về cả vốn góp và các hoạt động được thực hiện. Về vốn góp, ngay sau khi gia nhập các công ty vận tải biển nước ngoài có thể thành lập liên doanh trong đó tỷ lệ góp vốn không quá 51% , sau 5 năm kể từ ngày gia nhập họ có thể được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Về phạm vi hoạt động, sau khi gia nhập chỉ được thực hiện 5 hoạt động: Tiếp thị và bán dịch vụ vận tải biển thông qua giao dịch trực tiếp với khách hàng từ việc niêm yết giá đến việc lập chứng từ vận tải; đại diện cho chủ hàng; cung cấp các thông tin kinh doanh theo yêu cầu; chuẩn bị tài liệu liên quan tới chứng từ vận tải; cung cấp dịch vụ vận tải biển bao gồm cả dịch vụ vận tải nội địa bằng tàu mang cờ Việt Nam. Sau 5 năm các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép thay mặt công ty tổ chức cho tàu vào cảng hoặc tiếp nhận hàng khi có yêu cầu; đàm phán ký kết hợp đồng vận tải….
Các dịch vụ hỗ trợ vận tải biển như dịch vụ xếp dỡ công ten nơ, dịch vụ thông quan, dịch vụ kho bãi công ten nơ đều chưa được cam kết theo phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới; không hạn chế đối với phương thức tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài; không hạn chế đối với phương thức cung cấp thông qua hiện diện thương mại ngoại trừ việc giới hạn về tỷ lệ góp vốn, và chưa cam kết đối với phương thức cung cấp dịch vụ thông qua thể nhân.
Tác động của các cam kết đối với dịch vụ vận tải biển của Việt Nam
Thông qua hội nhập và hợp tác Việt Nam sẽ tranh thủ được nguồn vốn và kỹ thuật tiên tiến, thu hút vốn đầu tư cho việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng trong hoạt động vận tải. Từ đó nâng cao năng lực làm hàng trong ngành vận tải đường biển, đến lúc đó, lợi thế địa lý là cửa ngõ giao thương giữa các nước trong khu vực của Việt Nam mới thực sự được phát huy. Nhiều hãng tàu, nhiều doanh nghiệp tham gia dịch vụ hỗ trợ vận tải biển từ các nước thành viên đầu tư và cung cấp dịch vụ tại Việt Nam sẽ đem đến cho các doanh nghiệp nhiều sự lưa chọn hơn, tạo điều kiện cho xuất khẩu phát triển. Các doanh nghiệp vận tải trong nước sẽ có điều kiện trao đổi và nâng cao trình độ cán bộ cả về quản lý và kỹ thuật khi hợp tác với các công ty nước ngoài. Ngoài ra, các doanh nghiệp GTVT có điều kiện mở rộng và thâm nhập thị trường nước ngoài. Qua đó nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên hệ thông hạ tầng còn yếu kém đã cản trợ không ít tới ngành vận tải đường biển của Việt Nam. Cơ sở hạ tầng của vận tải biển ở Việt Nam chưa được phân bổ hợp lý. Một số cảng được thiết kế để đón nhận các tàu vận tải container những năng lực chỉ cho phép tiếp nhận tàu nhỏ. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ chưa cao, năng suất thấp cho nên tính ý cạnh tranh còn yếu. Chúng ta không có nhiều cán bộ có kinh nghiệm trong giao dịch quốc tế và khả năng chuyên môn, khả năng ngoại ngữ còn hạn chế. Một số doanh nghiệp chưa thấy hết được những khó khăn và thách thức khi nước ta bước vào hội nhập kinh tế quốc tế phải dần dần mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh một số ngành nghề dịch vụ GTVT, nên chưa chủ động đề ra biện pháp tăng cường khả năng cạnh tranh. Tóm lại, vận tải là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, là đầu vào và đầu ra cho các ngành kinh tế khác. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành vận tải nên các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều phải rất thận trọng khi đưa ra các cam kết tự do hóa trong lĩnh vực này.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN GATS TẠI VIỆT NAM
Giải pháp vĩ mô
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Thách thức chủ yếu nhất đối với Việt Nam trong tiến trình mở cửa, thực hiện cam kết cho các ngành dịch vụ theo Hiệp định GATS chính là những điểm khác biệt giữa hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam và các quy định của GATS.
Hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý về kinh tế- thương mại trong nước còn chưa hoàn chỉnh, chưa hệ thống, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, còn nhiều hạn chế trong điều kiện tự do hoá thương mại hiện nay.
Từ những bất cập trong hệ thống pháp luật đã nêu ở trên, ta thấy Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết của WTO phải xây dựng, bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi các văn bản pháp luật và các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với yêu cầu của WTO, với luật chơi chung của thế giới, đồng thời vẫn đảm bảo được tính định hướng phát triển và lợi ích của đất nước cũng như hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế trong nước. Hệ thống chính sách, pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng phát huy tối đa nội lực và tiềm năng của đất nước, của tất cả các thành phần kinh tế; tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tích tụ, liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh; thu hút đầu tư nước ngoài; khuyến khích môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế; đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Phát triển thương mại dịch vụ song song với phát triển sản xuất hàng hóa
Dịch vụ luôn luôn gắn liền với sản xuất hàng hoá, chúng là hai mặt thống nhất không thể tách rời của nền kinh tế. Chúng luôn hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Thật vậy, dịch vụ phát triển sẽ tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát triển, và ngược lại sản xuất hàng hoá có phát triển mới tạo ra cơ sở vật chất vững chắc cho dịch vụ phát triển. Mặt khác, nếu một lĩnh vực lạc hậu, trì trệ thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lĩnh vực kia. Do vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế giai đoạn này là gắn phát triển dịch vụ với phát triển sản xuất, không coi nhẹ một lĩnh vực nào. Đảng ta chỉ rõ: “Hoạt động dịch vụ phải làm tốt nhiệm vụ phục vụ ‘đầu vào’ và ‘đầu ra’ trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng… Phải chủ động phát triển mạng lưới dịch vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”.
Hướng tới một quan điểm phát triển toàn diện về sản xuất hàng hoá và dịch vụ là một trong những mục tiêu ưu tiên đặt ra cho chúng ta trên con đường xây dựng đất nước và xác định ưu thế so sánh của đất nước trong phân công lại lao động quốc tế bao gồm cả sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Muốn vậy, tạo điều kiện và hỗ trợ phát triển các ngành dịch vụ bên cạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hiệp định chung về thương mại dịch vụ gats.doc