Tiểu luận Hiệu ứng nhà kính, ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính đến sự biến đổi khí hậu và sự nóng lên toàn cầu

Trái đất có 7 tỷ người và hiện giờ, có đến hơn một nửa số người này sống ở vùng duyên hải của Trái đất trong phạm vi 100 km trở lại vùng bờ biển. khi nước biển dâng lên làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng tỷ người. Theo dự báo của các nhà khoa học, thủ đô BangKok (Thái Lan) trong vòng hai mươi năm nữa sẽ bị ngập và hiện Thái Lan không đủ thời gian để chuyển thủ đô sang nơi khác. Còn đối với Việt Nam, Đồng bằng sống Cửu Long cũng là một trong những nơi rất "nhạy cảm" của vấn đề biến đổi khí hậu. Hay, vấn đề triều cường của TP. HCM, bão lũ miền Trung còn nan giải hơn rất nhiều khi tính đến yếu tố liên quan bởi hiện tượng biến đổi khí hậu.

Đối với sự đe dọa của biến đổi khí hậu thì đây là nguy cơ chung cho đời sống nhân loại. Trong việc giải quyết vấn đề này, tất cả mọi người trên Trái đất sẽ không có ai thắng và cũng không có ai thua,

Trước sự đe dọa ấy, mọi người đều giống nhau về mặt số phận. Hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra, còn mức độ nghiêm trọng đến đâu là do con người quyết định và con người có đầy đủ, có công nghệ, có tiền chỉ còn thiếu quyết tâm về mặt chính trị của tất cả các quốc gia để giải quyết vấn đề này.

 

doc30 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 16105 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hiệu ứng nhà kính, ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính đến sự biến đổi khí hậu và sự nóng lên toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t, khai thác khoáng sản.. Nhà máy nhiệt diện thải vào không khí một lượng khổng lồ khí CO2, NOx, CH4.. vào năm 2005, số lượng kênh thải ra khí gaz gây hiệu ứng nhà kính tại các nước công nghiệp phát triển đã tăng quá cao, gần “đánh đổ” kỷ lục của năm 1990 mặc dù trên phạm vi toàn thế giới, cuộc đấu tranh chống lại sự nóng lên của khí hậu toàn cầu đã bắt đầu có những bước chuyển biến tốt đẹp. Văn phòng phụ trách về sự thay đổi khí hậu toàn cầu thuộc Liên hợp quốc cho biết vào năm 2005, các kênh phát tán khí gaz ô nhiễm của 40 quốc gia công nghiệp phát triển nhất đã lên tới con số 18,2 tỷ tấn, cao hơn so với 18,1 tỷ tấn vào năm trước đó. Cũng theo cơ quan này, mức độ khí ô nhiễm thải ra lên đến mức đỉnh điểm là vào năm 1990 với 18,7 tỷ tấn khí gaz gây hiệu ứng nhà kính thải ra bầu khí quyển. Sự gia tăng lượng khí thải vào năm 2005 khẳng định xu hướng biến động tăng lên của các kênh phát tán khí gaz gây hiệu ứng nhà kính trên thế giới, mặc dù hầu hết các quốc gia đều nỗ lực hành động để cố gắng giảm các kênh này. Phần lớn trong số họ đều nhận thức rõ ràng rằng đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự nóng lên của khí hậu toàn cầu – một hiện tượng thiên nhiên không hề được trông đợi. Theo những số liệu Liên hợp quốc thu thập được trong thời gian qua, “kể từ năm 2000, các kênh thải ra khí gaz gây hiệu ứng nhà kính (…) đã tăng thêm 2,6%”. Chỉ trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2005, riêng số kênh thải ra khí gaz gây hiệu ứng nhà kính của Mỹ đã vượt qua 7,19 tỷ tấn lên 7,24 tỷ tấn. Mặt khác, cũng theo những điều tra, nghiên cứu của Cơ quan phụ trách vấn đề thay đổi khí hậu thuộc Liên hợp quốc, trong giai đoạn này, sự gia tăng số lượng các kênh thải ra loại khí độc hại này trên phạm vi toàn cầu một phần lớn bắt nguồn từ sự phục hồi kinh tế của các nước thuộc hệ thống Liên bang Xô Viết. Các kênh thải khí gaz ô nhiễm của Nga đã vượt qua 2,09 tỷ tấn vào năm 2004 lên 2,13 tỷ tấn vào năm 2005. Tuy vậy, các kênh phát tán khí độc hại của Nga vẫn còn ở mức độ rất xa so với “kỷ kục” của nước này vào năm 1990 với 3 tỷ tấn khí thải, chính xác là trước khi Nga ra lệnh đóng cửa nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp. 2.2.2 Giao thông vận tải Sự phát triển nhanh các phương tiện giao thông vận tải của thế giới là nguyên nhân tiềm tàng gây tăng Hiệu ứng nhà kính . Trong quá trình hoạt động các phương tiện giao thông phát thải vào không khí một khối lượng lớn các loại khói, khí độc như CO, CO2, hydrocacbon, NO2, SO2, khói đen, chì và các dạng hạt khác. Tùy theo loại động cơ và loại nhiên liệu mà khối lượng các chất thải độc hại chiếm tỷ lệ khác nhau trong khí xả. Trong những năm gần đây người ta chú ý nhiều đến giao thông vận tảivì nó góp phần thải ra CO2 – khí nhà kính quan trọng nhất. Trên tòan thế giới khỏang 15% CO2 trong không khí là do các phương tiện giao thông vận tải thải ra. Khi dòng xe lưu thông trên đường, đặc biệt là khi hãm phanh, các lốp xe sẽ ma sát mạnh với mặt đường làm mòn đường, mòn các lốp xe và tạo ra bụi đá, bụi cao su và bụi sợi. Các bộ phận ma sátcủa phanh bị mòn cũng thải ra bụi kẽm, đồng, niken, crom, sắt và cadmi. Ngoài ra quá trình cháy không hết nhiên liệu cũng thải ra bụi ccacbon. Bên cạnh các nguồn bụi sinh ra từ xe, còn có bụi đất đá, cát tồn đọng trên đường do chất lượng đường kém, do đường bẩn và do chuyên chở các vật liệu xây dựng, chuyên chở rác. 2.2.3 Khai thác rừng Việc gia tăng khai thác gỗ và ô nhiễm môi trường không khí ở các nước đang phát triển là cho diện tích rừng suy giảm nhanh chóng. Tính trung bình, tốc độ mất rừng hàng năm của thế giới vào khoảng 20 triệu ha.Bên cạnh suy giảm về diện tích, chất lượng rừng cũng bị suy giảm.Những nguyên nhân trên đang làm giảm khả năng hấp thụ khí C02 của rừng thế giới theo thời gian. Sự mất rừng: chủ yếu là do chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp, vẫn ở một tốc độ nhanh: khỏang 13 triệu ha mỗi năm. Trong giai đoạn 2000-2005 thì tỉ lệ mất rừng toàn cầu giảm còn 7,3 triệu ha mỗi năm (so sánh với tỉ lệ mất 8,9 triệu ha mỗi năm trong giai đoạn 1990 -2000). Khai thác gỗ là nguyên nhân chính gây mất rừng 2.2.4 Hoạt động nông nghiệp Dân số ngày càng tăng làm cho nhu cầu về lương thực thực phẩm của con người tăng lên. Con người phải đẩy mạnh khai thác tài nguyên đất, tăng cường quay vòng sản xuất, sử dụng một khối lượng lớn các phân bón hoá học và các thuốc bảo vệ thực vật. Điều này đã làm cho đất bị giảm độ phì nhiêu, ô nhiễm nặng nề do dư lượng phân hoá học và thuốc bả o vệ thực vật Ngày 12/1, Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) dẫn báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), cho biết chăn nuôi gia súc là một trong những nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính. Theo báo cáo trên, phân gia súc không chỉ làm ô nhiễm môi trường, mà còn phát tán khí CO2 cũng như nhiều chất hóa học khác có tác động mạnh tới sự ấm lên của Trái Đất. Đặc biệt trong số đó có chất ô-xít ni-tơ, chiếm 65% lượng khí và chất hóa học phát tán. Chất khí này có khả năng làm Trái Đất ấm lên gấp 296 lần so với khí CO2 và khí mê-tan, loại khí độc hại hơn CO2 tới 23 lần. 2.2.5 Các hoạt động khác Ngoài các nguyên nhân chủ yếu trên còn có các hoạt động sinh hoạt của con người, sự phun trào núi lửa v.v…tạo ra mọt lưong khoảng 2% khí nhà kính. Sự hoạt động của các ngọn núi lửa và các loài vi khuẩn sống trong không khí cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm không khí. Theo ước tính thì lượng CO2 do núi lửa hoạt động phun ra cao gấp 40.000 lần so với lượng CO2 hiện có trong khí quyển. III Sự gia tăng Hiệu ứng nhà kính tác động đến sự biến đổi khí hậu- nóng lên toàn cầu 1.Biến đổi khí hậu Trước tiên, cần hiểu khí hậu là gì? Khí hậu là mức độ trung bình của thời tiết trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Trong vòng 1.000 năm qua,  nhiệt độ bề mặt Trái đất có tăng, giảm không đáng kể và có thể nói là ổn định. Thế nhưng, trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục năm vừa qua khi công nghiệp hoá phát triển, nhân loại  bắt đầu khai thác than đá, dầu lửa, sử dụng các nhiên liệu hoá thạch...  Cùng với các hoạt động công nghiệp tăng lên, nhân loại bắt đầu thải vào bầu khí quyển một lượng khí CO2, nitơ ôxít, mêtan... khiến cho nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên. Hầu hết giới khoa học đều công nhận biến đổi khí hậu là do nồng độ của khí hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao. Bản thân nó đã làm cho Trái đất ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên, nhiệt độ nóng lên này đã tạo ra các biến đổi trong các vấn đề thời tiết hiện nay. Theo báo cáo mới nhất của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu 90% do con người gây ra, 10% là do tự nhiên. Hiện nay, nhiệt độ trung bình đã tăng lên tới 0,3 - 0,4 độ C trong mấy chục năm vừa qua và hiện đang có xu hướng tăng tiếp. Theo các mô hình nghiên cứu trong thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình của Trái đất có thể tăng từ 1,1 - 6 độ C khả năng xảy ra từ 1,8 - 4 độ C trong đó tùy theo sự phát thải hiệu ứng nhà kính cắt giảm đến mức độ nào để làm giảm bớt các khí CO2 và các khí khác gây hiệu ứng nhà kính. Nếu như ngay từ lúc này, nhân loại  dừng phát thải khí nhà kính thì nhiệt độ bề mặt Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên, nước biển vẫn tiếp tục dâng lên trong vòng 50 năm nữa. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng của các dãy Himalaya và Nam cực, Bắc cực và các vùng khác tan chảy. Những núi băng này tan chảy sẽ làm cho mực nước biển tăng lên. Mực nước biển dâng lên từ 28 - 43 cm. Nhưng có thể mực nước biển này còn cao hơn nữa tùy theo sự phát thải của hiệu ứng nhà kính và tác động của con người gây ra biến đổi khí hậu là một điều cực kỳ nguy hiểm đe doạ đến vấn đề tồn tại của con người. Biểu đồ nhiệt độ trung bình trên bề mặt Ảnh minh họa về hiện tượng Trái đất đã tăng lên trong vòng 140 năm qua Trái đất nóng lên do biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu gây nguy hiểm do nó làm cho Trái đất nóng lên, nước biển dâng lên.  Trái đất có 7 tỷ người và hiện giờ, có đến hơn một nửa số người này sống ở vùng duyên hải của Trái đất trong phạm vi 100 km trở lại vùng bờ biển. khi nước biển dâng lên làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng tỷ người. Theo dự báo của các nhà khoa học, thủ đô BangKok (Thái Lan) trong vòng hai mươi năm nữa sẽ bị ngập và hiện Thái Lan không đủ thời gian để chuyển thủ đô sang nơi khác. Còn đối với Việt Nam, Đồng bằng sống Cửu Long cũng là một trong những nơi rất "nhạy cảm" của vấn đề biến đổi khí hậu. Hay, vấn đề triều cường của TP. HCM, bão lũ miền Trung còn nan giải hơn rất nhiều khi tính đến yếu tố liên quan bởi hiện tượng biến đổi khí hậu.  Đối với sự đe dọa của biến đổi khí hậu thì đây là nguy cơ chung cho đời sống nhân loại. Trong việc giải quyết vấn đề này, tất cả mọi người trên Trái đất sẽ không có ai thắng và cũng không có ai thua, Trước sự đe dọa ấy, mọi người đều giống nhau về mặt số phận. Hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra, còn mức độ nghiêm trọng đến đâu là do con người quyết định và con người có đầy đủ, có công nghệ, có tiền chỉ còn thiếu quyết tâm về mặt chính trị của tất cả các quốc gia để giải quyết vấn đề này. Vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lớn nhất của Trái đất là Bắc cực và Nam cực, hai nơi này nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Sau đó đến các vùng núi cao như Himalaya, Tây Tạng... Theo nghiên cứu những vùng lạnh nhất có nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Còn tại Việt Nam, nhiệt độ sẽ tăng từ 0,3 - 0,5 độ C đến năm 2010, từ 1- 2 độ C vào năm 2020, từ 1,5 - 2,5 độ C vào năm 2070. Những khu vực có nhiệt độ tăng cao nhất là Tây Bắc và Việt Bắc.  Biến đổi khí hậu sẽ làm tăn các hiên tượng thiên nhiên nguy hiểm, Tần suất và các hiện tượng mưa lớn, bão, nhiệt độ cao, hạn hán tăng nhanh trong thạp kỷ vừa qua.Cụ thể, biến đổi khí hậu gây nên: 2.Hiện tượng ENSO El Nino-Dao động phương nam (El Nino-Southern Oscillation, viết tắt là ENSO) là hiện tượng dị thường trong tương tác đại dương-khí quyển toàn cầu, bao gồm hai yếu tố: Yếu tố hải dương với sự tăng hoặc giảm nhiệt độ bất thường (lớn hơn 0,5oC) của lớp nước biển bề mặt khu vực Đông Thái Bình Dương: nếu tăng, đó là El Nino; nếu giảm, đó là La Nina. Mặc dù trái ngược nhau nhưng thực chất El Nino và La Nina chỉ là hai mặt của cùng một hiện tượng. Vì vậy, người ta thường gọi La Nina là “chị em song sinh” của El Nino. Yếu tố khí tượng là dao động hàng tháng hoặc hàng mùa trong sự chênh lệch áp suất khí quyển giữa đảo Tahiti (Nam Thái Bình Dương) và Darwin (Bắc Australia). Một đợt ENSO nóng gây ra bởi El Nino và cái tên El Nino thường được dùng thay cho ENSO nóng. Tương tự, một đợt ENSO lạnh gây ra bởi La Nina thường cũng được gọi luôn là hiện tượng La Nina. Sự lưu thông của nước biển và không khí trong điều kiện bình thường Sự lưu thông của nước biển và không khí trong điều kiện El Nino Điều kiện El Nino  Trong điều kiện El Nino, vùng nước ở giữa Nam Mỹ và Đường đổi ngày quốc tế được hâm nóng. Sự hâm nóng này tập trung chủ yếu ở xích đạo và thường mở rồng thêm một số vĩ độ ra hai bên. Nước biển ven bờ tây Peru cũng ấm lên. Ảnh hưởng của ENSO đến sự thay đổi khí hậu       ENSO ảnh hưởng rõ rệt lên thời tiết các khu vực ở Thái Bình Dương, phần xích đạo và Nam Bán Cầu rõ nét hơn phần phía bắc của Bắc Bán Cầu. Ngoài ra ENSO còn tác động đến thời tiết Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Thời tiết El Nino Hình A Hình B Hình A :Bản đồ thể hiện thời tiết từ tháng 12 đến tháng 2 ở các khu vực chịu ảnh hưởng của El Nino. Các màu trong bảng chú giải (từ trên xuống) thể hiện: ẩm và mát; ẩm; ẩm và ấm; khô và ẩm; khô; ấm. Hình B: Bản đồ thể hiện thời tiết từ tháng 6 đến tháng 8 ở các khu vực chịu ảnh hưởng của La Nina. Các màu trong bảng chú giải (từ trên xuống) thể hiện: mát, ẩm và mát, ẩm, ẩm và ấm, khô, ấm.  Bắc Mỹ: Alaska, Tây Canada, đôi khi cả miền Trung Hoa Kì chịu một mùa đông lạnh giá. Đông Nam Hoa Kì và Trung Mỹ trải qua thời tiết khô hạn trong cùng thời gian. Hoạt động bão Đại Tây Dương được tăng cường. Nam Mỹ: tháng 6 đến tháng 8 ở Bắc Brazil trở nên ẩm ướt. Tháng 12 đến tháng 2 từ Nam Brazil cho đến Trung Argentina là những tháng khô hơn bình thường. Châu Á và Châu Úc: lượng mưa những tháng đầu và cuối năm tăng mạnh ở Indonesia, Malaysia và Bắc Úc. Đông Úc khô nóng bất thường từ tháng 6 đến tháng 8. Gió mùa tăng cường ở Ấn Độ và Phillippines. Châu Phi: thời tiết ẩm và mát hơn ở Đông Nam châu Phi trong suốt thời gian diễn ra La Nina. 4. El Nino trong lịch sử Theo kết quả điều tra dựa vào tư liệu lịch sử, El Nino đã xuất hiện cách đây nhiều thế kỉ, hầu hết có cường độ yếu. Các đợt El Nino mạnh nhất diễn ra trong vòng 300 năm trở lại đây vào: 1789-93, 1828, 1876-78, 1891, 1925-26, 1982-83, và 1997-98.        Nhiều nhà sử học cũng bắt đầu chú ý đến khía cạnh lịch sử của El Nino. Một vài kết luận khá bất ngờ đã được đưa ra. Chẳng hạn, vụ mùa thất bát ở châu Âu vào năm 1788-1789 – hậu quả của một đợt El Nino mạnh – là một trong những nguyên nhân kích động Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ. Những kết quả nghiên cứu lõi băng khoan từ băng hà trên đỉnh núi Andes cho thấy một “siêu El Nino” đã gây ra 30 năm mưa lụt theo sau bởi 30 năm hạn hán liên miên, kéo theo sự suy tàn của nền văn minh Mohica vào thế kỉ VI.       Điều đó cho thấy không thể coi El Nino nói riêng và ENSO nói chung chỉ là những hiện tượng khí hậu thuần túy. Đôi khi chúng có thể gây ra những thảm họa thay đổi cả tiến trình phát triển của các nền văn minh. 5.Tác động của các ENSO cực đoan       Các đợt ENSO “cực đoan” (mạnh bất thường) không chỉ gây nên sự thay đổi về thời tiết mà còn có tác động to lớn đến các hệ sinh thái, kinh tế và sức khỏe con người. Trong đó, những ảnh hưởng của El Nino được ghi nhận nhiều hơn là La Nina. Hai đợt EL Nino “cực đoan” gần đây nhất xảy ra vào các năm 1982-1983 và 1997-1998. Nếu như đợt El Nino thứ nhất mới chỉ thu hút sự quan tâm của cộng đồng khoa học quốc tế thì đợt El Nino thứ hai đã buộc người dân trên toàn thê giới phải chú ý đến hiện tượng này. Tác động đến các hệ sinh thái biển và ngư nghiệp Sự thay đổi các điều kiện khí hậu gây ra bởi ENSO gây ra sự biến động mạnh mẽ trong hệ sinh thái biển, và thường là các ảnh hưởng tiêu cực. Rất dễ dàng tìm thấy những ví dụ minh họa cho các ảnh hưởng này: Dọc bờ biển phía tây của Nam Mỹ, El Nino ngăn cản sự xuất hiện trên bề mặt của nước biển lạnh giàu dinh dưỡng, làm giảm đáng kể lượng phù du. Đời sống các loài thủy sinh ăn phù du và các động vật ở bậc dinh dưỡng cao hơn (cá, chim biển và thú biển) do đó cũng bị đe dọa nghiêm trọng. El Nino còn gây ra các luồng di cư của các động vật nước lạnh lên phía bắc hoặc xuống các tầng nước sâu. Nhiều loài được tìm thấy ở những nơi không phải môi trường bản địa của chúng. Hiện tượng tảo nở hoa ở vùng biển tây Thái Bình Dương là hậu quả khác của El Nino và La Nina. Sự phát triển đột biến của tảo, với El Nino, là do sự giảm số lượng đáng kể các loài động vật ăn chúng; với La Nina, là do chất dinh dưỡng dư thừa trong nước biển. Nhiệt độ nước biển tăng cao trong El Nino tiêu diệt các loài tảo cộng sinh trong san hô, dẫn đến hiện tượng san hô bị “tẩy trắng”. Chỉ riêng đợt El Nino năm 1998 đã tiêu diệt khoảng 16%  rạn san hô trên thế giới, một thiệt hại to lớn đối với đa dạng sinh học và nghề cá. Sự phục hồi các rạn san hô trong thời gian không có El Nino bị cản trở bởi sự nóng lên toàn cầu. Nhiều chuyên gia phác họa một viễn cảnh không hề tươi sáng cho các “kì quan đại dương” này.  Sự giảm số lượng nhiều loài động vật biển có giá trị thương mại ở vùng bờ biển Tây Thái Bình Dương trong thời gian diễn ra El Nino gây thiệt hại lớn cho hoạt động ngư nghiệp ở đây. Chẳng hạn, đợt El Nino 1972 đã làm ngành cá với sản lượng đánh bắt lớn nhất thế giới của Peru gần như sụp đổ. Hạn hán, mất mùa, và nạn đói Thiệt hại chính cho nông nghiệp trong thời gian diễn ra ENSO (đặc biệt là El Nino) gây ra bởi hạn hán. Sản xuất lương thực rất nhạy cảm với hạn hán ở những vùng và cận nhiệt đới, nơi lượng mưa phân bố rất không đồng đều trong năm. El Nino mang hạn hán đến nhiều vùng nhạy cảm như vậy trên thế giới trong cùng một thời gian. Điều này có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng lương thực, như vào năm 1972 khi hạn hán do El Nino ảnh hưởng đến một số khu vực sản xuât lương thực lớn như Đông Nam Á và Đông Bắc Trung Quốc. Hạn hán nghiêm trọng do El Nino thường xảy ra ở Nam Mỹ,  phía Bắc châu Đại Dương và đôi khi dẫn đến nạn đói, ngay cả ở những khu vực có nền nông nghiệp trù phú. Một tình huống như thế đã diễn ra ở Panama, Đông Băc Brazil và Papua New Guinea năm 1998.  Nam châu Phi cũng là khu vực nhạy cảm với những trận hạn hán theo chu kì, khiến lương thực trở nên thiếu thốn trầm trọng. El Nino năm 1991-92 đã gây nên đợt hạn hán tồi tệ nhất ở khu vực này trong thế kỉ XX, với sản lượng giảm tới 80% ở một số vùng và gần 100 triệu người bị ảnh hưởng. Rất may mắn là đợt El Nino mạnh hơn nhiều vào năm 1997-98 lại không gây hạn hán nghiêm trọng. Điều này cho thấy việc tiên đoán những ảnh hưởng cục bộ của ENSO khó khăn đến mức nào. Cháy rừng và cây bụi: ô nhiễm không khí và đe dọa hệ sinh thái lục địa Hạn hán làm gia tăng tính dễ cháy ở một số cánh rừng và khu vực đồi núi. Đa phần các đám cháy có nguyên nhân nhân tạo như hoạt động đốt nương làm rẫy nhưng chính hiệu ứng của El Nino làm cho chúng trở nên rất khó kiểm soát. Theo ước tính của Quỹ Động vật hoang dã Thề giới WWF, 12 triệu ha rừng trên thế giới đã bị thiêu hủy chỉ trong đợt El Nino 1997-98, tập trung ở các vùng như Bắc Úc, phía nam Đông Nam Á, và phía bắc Nam Mỹ. Cháy rừng và cây bụi không chỉ đe dọa đến đời sống động thực vật hoang dã mà khói bụi do chúng gây ra còn ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cư dân các vùng lân cận. Cháy rừng Bão, lũ và ngập úng Bão nhiệt đới, tuyết rơi dày bất thường, mưa lớn gây ra lũ, ngập úng và trượt đất là cảnh tượng thường thấy trong thời gian diễn ra ENSO. Đông Nam Á, bờ Tây Thái Bình Dương, vịnh Mexico, quần đảo Caribbe, Queensland và Đông Nam châu Phi thường phải hứng chịu những cơn bão lớn và ngập lụt nghiêm trọng khi La Nina hoạt động mạnh. Tình cảnh tương tự diễn ra ở Vịnh Mexico và một vùng ở Đông Phi trong các đợt El Nino. Hậu quả để lại là rất nặng nề. Ví dụ: trong khoảng thời gian 1997-98, ngập và lũ bùn đã xuất hiện ở Ecuador và Bắc Peru, phá hủy nghiêm trọng hạ tầng cơ sở. 9,5% cơ sở y tế của Peru bị hư hại bao gồm 2% số bệnh viện và 10% số trung tâm y tế khác. Bên cạnh thiệt hại về người và của, lũ lụt và ngập úng còn cản trở vận tải, du lịch, gây thiệt hại cho nông nghiệp và tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển.. Tại Việt Nam:        Khi có El Nino, bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) xuất hiện ít hơn, và có tính chất tập trung vào đầu mùa. Nhưng đặc biệt nguy hiểm là sẽ xuất hiện những cơn bão, áp thấp nhiệt đới hoạt động trái quy luật, đổ bộ vào những nơi ít đổ bộ, đường đi lắt léo. Ví dụ, thông thường vào cuối năm, bão đi qua Philippines vào biển Đông thì do tác động của không khí lạnh ở phía bắc, bão có xu hướng dịch xuống phía nam. Nhưng khi có El Nino thì quy luật đó bị đảo lộn hoàn toàn. Ví dụ năm 1997, El Nino xuất hiện có cơn bão Linda đổ bộ vào Cà Mau. Tuy cường độ bão không mạnh, nhưng lại đổ bộ vào vị trí hàng trăm năm nay bão không vào nên gây thiệt hại rất lớn. Diễn biến khác, dự báo xa 14 ngày của Cơ quan Quản trị đại dương và khí quyển Hoa Kỳ (CPC/NOAA/NWS) nhận định: từ 13 đến 19.11 tại vùng biển Philippines và VN, lượng mưa sẽ cao hơn mức trung bình do có hoạt động mạnh của hiện tượng La Nina. Từ 20 đến 26.11, lượng mưa trong vùng tiếp tục tăng cao do sự gia tăng hoạt động của các nhiễu động nhiệt đới. Dự báo xa 10 ngày của Ecmwf (châu Âu) cho thấy từ 17 đến 21.11 có gió mạnh tại miền Trung VN, từ 22 đến 24.11 có khả năng một áp thấp nhiệt đới hoặc bão biển hoạt động tại Philippines, ảnh hưởng xấu tình hình thời tiết tại VN. Ảnh vệ tinh NCHMF lúc 11 giờ trưa 16.11 Lũ vẫn tiếp tục lên với tốc độ nhanh chỉ rõ vùng thời tiết xấu đang tiến vào biển Đông Lũ cuồn cuộn đổ về sông Cầu Đỏ (ảnh: Đ.N.K) Dịch bệnh và dịch hại ENSO gây ra những thay đổi lớn trong chế độ nhiệt ẩm ở một số vùng. Những thay đổi này trong nhiều trường hợp tạo ra điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh lây lan như vật trung gian sinh sôi nảy nở mạnh, nguồn nước bị ứ đọng và nhiễm bẩn… Những khu vực bị ngập úng, bị cách ly là những nơi bị dịch bệnh hoành hành. Nhiều nước nhiệt đới có hệ thống chăm sóc y tế kém hiệu quả, hiểu biết cộng đồng và điều kiện vệ sinh còn nhiều hạn chế nên đặc biệt nhạy cảm với sự lây lan của dịch bệnh. Những bệnh thường bùng phát liên quan đến ENSO và một vài ví dụ minh họa: Sốt rét: ở Columbia, số ca sốt rét tăng trung bình 17% trong thời gian diễn ra các đợt El Nino và 35% trong những năm tiếp theo. Nguyên nhân từ sự giảm lượng mưa khiến các dòng chảy suy giảm, nước ứ đọng tăng khiến muỗi phát triển mạnh. Bệnh sốt rét cũng hình thành các đại dịch ở Nam châu Phi nhưng là do tăng lượng mưa và khả năng miễn dịch kém của dân cư ở những vùng trước nay khô hạn. Sốt xuất huyết: từng bùng phát ở các đảo Nam Thái Bình Dương liên quan đến điều kiện ẩm hươn bình thường do La Nina Tiêu chảy và tả: lây lan nhanh chóng ở những nơi nguồn nước bị tù đọng và ô nhiễm. Tanzania, Kenya, Somalia , Ecuador từng trải qua đợtbùng phát dịch tả sau những trận mưa lớn năm 1998.      ENSO cũng góp phần tạo ra sự sinh sôi mạnh mẽ hoặc xâm nhập ồ ạt của nhiều loài dịch hại  gồm các loài gặm nhấm và côn trùng. Ngoài ra sự biến đổi khí hậu còn ảnh hưởng tới các đặc tính sau: Các nguồn nước: Chất lượng và số lượng của nước uống, nước tưới tiêu, nước cho kỹ nghệ và cho các máy phát điện, và sức khỏe của các loài thủy sản có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự thay đổi của các trận mưa rào và bởi sự tăng khí bốc hơi. Mưa tăng có thể gây lụt lội thường xuyên hơn. Khí hậu thay đổi có thể làm đầy các lòng chảo nối với sông ngòi trên thế giới. Các tài nguyên bờ biển: Chỉ tại riêng Hoa Kỳ, mực nước biển dự đoán tăng 50 cm vào năm 2100, có thể làm mất đi 5.000 dặm vuông đất khô ráo và 4.000 dặm vuông đất ướt. Sức khỏe: Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kì dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm. Năng lượng và vận chuyển: Nhiệt độ ấm hơn tăng nhu cầu làm lạnh và giảm nhu cầu làm nóng. Sẽ có ít sự hư hại do vận chuyển trong mùa đông hơn, nhưng vận chuyển đường thủy có thể bị ảnh hưởng bởi số trận lụt tăng hay bởi sự giảm mực nước sông. Xa hơn nữa nếu nhiệt độ của quả đất đủ cao thì có thể làm tan nhanh băng tuyết ở Bắc Cực và Nam Cực và do đó mực nước biển sẽ tăng quá cao, có thể dẫn đến nạn hồng thủy. Khí hậu ấm lên dường như đang làm tan băng trên toàn cầu. Và những thảm họa khôn lường do các núi băng tan chảy đã bắt đầu xảy đến với con người. Tháng 3.2002, khối băng 500 tỉ tấn Larsen B ở Châu Nam Cực tự rã rời thành hàng nghìn mảnh nhỏ ngay trước mắt các nhà khoa học. Hè 2002, một khối băng 3 triệu tấn tách ra từ núi băng Maili trên dãy núi vùng Cápcadơ thuộc Nga đã lao xuống, chôn vùi làng Karmadon dưới 150 mét băng vụn. Đầu 2004, nhà băng tuyết học Konrad Steffen, ĐH Colorado Mỹ, cùng đồng sự đã phát hiện băng trôi ra biển từ sông băng Petermann ở Greenland mỏng hơn 45m so với 2003. Nghiên cứu của ĐH bang Montana cho thấy hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng tuyết vĩnh cửu đã biến mất khỏi Khu sông băng quốc gia (Glacier National Park) ở bang này trong vòng 100 năm qua, 40 cái còn lại đang co hẹp dần. Cũng giống như một số sông băng tại Alaska, hiện các núi băng ở dãy Alps, nóc nhà của Châu Âu, có thể dịch chuyển 50m/ngày, đe dọa vô số làng mạc và những đường ống dẫn dầu. Trước thảm họa băng tan đang ngày một rõ rệt, các chuyên gia đang tìm cách tìm hiểu tác động qua lại giữa những sông băng và khí hậu, và trong chừng mực có thể, đưa được ra dự báo tốc độ tan chảy của các sông băng. Mối quan tâm của họ hiện nay là liệu khí hậu nóng lên ảnh hưởng đến lớp vỏ băng trên địa cầu thế nào; và nỗi lo lớn nhất nằm ở Nam Cực bởi nơi đây chứa tới 90%  lượng nước ngọt của Trái Đất. Sông băng càng tan chảy thì càng đổ thêm nước ngọt ra biển, và những dòng nước lạnh giá đầy băng càng tăng tốc hoà vào đại dương. Nhà băng tuyết học Richard Alley, ĐH Pennsylvania nói : "Dòng băng chảy nhanh hơn tức là mực nước biển tăng". Băng tan làm ngập những vùng bờ biển thấp, băng tan sẽ điều hoà khí hậu thay cho những dòng hải lưu của Đại Tây Dương hiện thời, vì lượng nước ngọt đổ vào đại dương nhiều hay ít sẽ quyết định bao nhiêu ánh sáng mặt trời được hắt trở lại làm nóng bầu khí quyển. Ông Alley thêm: "Nếu tất cả băng trên trái đất tan thì nước biển sẽ dâng lên 60m nữa so với hiện nay". Phát hiện 'hiệu ứng nhà kính ngược' Các bóng khí cổ đại bị kẹt trong băng. Với hiệu ứng nhà kính, CO2 biến hành tinh chúng ta thành một cái bẫy nhiệt khổng lồ, khiến cho nó nóng lên. Tuy nhiên, một phân tích mới đây của nhà khoa học Pháp về băng Nam cực cổ đại đã phát hiện thấy chính CO2 cũng là sản phẩm của quá trình tích nhiệt của trái đất. “Dữ liệu của chúng tôi cho thấy hiện tượng ấm lên xuất hiện trước, rồi sau đó hàm lượng CO2 trong bầu khí quyển mới tăng theo", Jean Jouzel của Viện Pierre-Simon Laplace ở Gif-sur-Yvette, Pháp, nhận định. Cho tới nay, các nhà khoa học đều nhất trí rằng ngoài hơi nước, thì CO2 là tác nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHiệu ứng nhà kính - ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính đến sự biến đổi khí hậu và sự nóng lên toàn cầu.DOC
Tài liệu liên quan