Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém, nghèo khó. Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng quy luật, chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản xuất vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp, vượt trước dựa trên cơ sở suy luận khoa học lôgic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng. Nó cũng phải dựa trên sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận khoa học logic.
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hình thái Kinh tế xã hội đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hượng tầng không giảm đi, mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Ví dụ: ở các nước tư bản, một mặt giai cấp tư sản đẩy mạnh chạy đua vũ trang tạo thế áp đảo quân sự mặt khác ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào quản lý kinh tế, xã hội phân hoá đội ngũ công nhân, lôi kéo một bộ phận trí thức công nhân kỹ thuật lành nghề tham gia vào việc phân chia lợi nhuận dưới hình thức các Công ty cổ phần.
Trái lại kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới, chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng của kiến trúc thượng tầng của xã hội chủ nghĩa.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện trong hai trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngược lại nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội, những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm muộn cũng sẽ bị cách mạng khắc phục về cơ bản, bản chất giữa cơ sở hạ tầng và cơ sở thượng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và có tác dụng mạnh mẽ trở lại. Cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ thấp vai trò của kiến trúc thượng tầng. nếu tuyệt đối hoá vai trò của kiến trúc thượng tầng thì sẽ rơi vào tả khuynh còn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh.
II. Sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam
Dựa trên cơ sở những lý luận chung trên đây, phần tiếp theo của đề tài xin phép được đi sâu vào vấn đề "hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam". Tính tất yếu của mục tiêu và thực trạng ở nước ta trong công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội - xã hội chủ nghĩa.
1. Tính tất yếu
Loài người đã phải trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình thái sau tiến bộ hơn, văn minh hơn hình thái trước.
Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên (cộng sản nguyên thuỷ) con người chỉ biết săn bắn hái lượm, ăn thức ăn sống cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, họ chưa biết chăn nuôi, trồng trọt, chưa biết tích luỹ thức ăn. Họ cùng làm cùng hưởng sống theo chế độ quần hôn. Có thể nói đây là thời kỳ sơ khai một thời kỳ mông muội của loài người. Sau đó đến hình thái kinh tế xã hội: Chiếm hữu nô lệ con người đã văn minh hơn họ không còn ăn tươi sống và đã biết lao động tạo ra của cải, xã hội chế độ tư hữu. Xã hội bắt đầu phân chia thành kẻ giầu người nghèo, thay thế chế độ quần hôn bằng chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan hệ giữa hai giai cấp đó là quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con người. Nô lệ biến thành công cụ lao động. Vấn đề giai cấp khi lên đến xã hội phong kiến bản chất vẫn là quan hệ bóc lột những sự bóc lột thể hiện qua sự cống nạp. Người nông dân, tá điền phải làm thuê và nộp tô thuế cho quan lại, địa chủ, song họ có một chút quyền lợi là được tự do.
Hình thái kinh tế xã hội: Tư bản chủ nghĩa ra đời đưa loài người lên nấc thang cao hơn của nền văn minh. Xã hội đã phong phú hơn về giai cấp. Giai cấp thống trị là giai cấp cơ bản. Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn rất nhiều lần so với sự bóc lột trước đó trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Người công nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị thặng dư, sự làm việc quá sức... Mặc dù tư bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một lượng của cải vật chất rất lớn cho xã hội, nhưng bản chất bóc lột cùng những mâu thuẫn khác là không thể điều hoà. Phần đông con người trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi mất bình đẳng. Cả ba chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa có những đặc điểm riêng nhưng nó đều là chế độ có khác những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, và dựa trên sự tư hữu về sản xuất. Giai cấp bóc lột là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã hội đều chỉ phục vụ cho quyền lợi của chính họ.
Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có những mặt tốt nhất định của nó chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà các hình thái kinh tế xã hội nói trên đã đạt được. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ xã hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của cải cho xã hội, quan trọng nhất là nó đưa con người ra khỏi thời kỳ mông muội hoang dã. Xã hội phong kiến là bước trung gian để loài người chuyển sang một nền văn minh mới nó hình thành những tiền đề tốt cho sự ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ còn là sản xuất nông nghiệp, con người đã được tiếp cận với sản xuất công nghiệp với những thành tựu khoa học kỹ thuật nó đã tạo ra những khả năng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nó tạo ra một khối lượng của cải vật chất cho nhân loại bằng tất cả các xã hội trước cộng lại.
Song một tấm huy chương luôn có hai mặt của nó. Mặc dù các xã hội nói trên đã đạt được những thành quả trong lịch sử phát triển loài người như những mặt trái của nó cùng những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Nền văn minh đảm bảo sự công bằng cho xã hội.
Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát huy thừa kế những thành quả của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục những mâu thuẫn những hạn chế của tư bản chủ nghĩa. Một xã hội mà quyền lực nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động - một tầng lớp đông đảo của xã hội. Mọi hoạt động kinh tế - văn hoá - chính trị phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội. Không còn tình trạng bóc lột, mọi người đều bình đẳng, sinh hoạt lao động dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ tập chung dân chủ công bằng xã hội. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao cơ sở hạ tầng phù hợp với kiên trúc thượng tầng.
Đây là hình thái kinh tế xã hội ưu việt một đỉnh cao của văn minh loài người.
Từ hai con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, một con đường tư bản chủ nghĩa và con đường đi từ tiến tư bản chủ nghĩa.
Nhân loại đã chứng kiến nhà nước, dân tộc do điều kiện lịch sử riêng của mình đã bỏ qua 1, 2 giai đoạn lịch sử nào đó đển tiên lên giai đoạn lịch sử cao hơn dưới hình thức này hay hình thức khác tức là "rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ". Việt Nam là một trong số những nước đó.
Song Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2. Mục đích:
Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định là: Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đây là những nhận định rất quan trọng đối với những bước đi tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới.
Thuộc phạm trù lực lượng sản xuất và vận động bên ngoài biện chứng nội tại của phương thức sản xuất vấn đề công nghiệp hoá ngày nay gắn chặt với hiện đại hoá trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học Mác xít chứ không phải là từ tư duy kinh tế hay tư duy nào khác.
Công nghiệp hoá là một quá trình nhằm đưa nước ta từ một nền công nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại.
Hiện đại hoá là một mục tiêu cơ bản của văn minh hiện đại, thể hiện xu hướng lịch sử tiến bộ và phát triển.
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ to lớn, đòi hỏi phải đi từ cái cụ thể đến cái tổng thể. Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hướng trung của Việt Nam trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã hội lại không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ xã hội. Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó quy luật sản xuất phù hợp với tính chất trình độ lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất nhằm cải tạo các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng sản xuất. Phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế quốc doanh phải phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả để thực sự có tác dụng chủ đạo với các thành phần kinh tế khác.
Chúng ta phải khắc phục quan niệm bỏ qua chủ nghĩa tư bản một cách giản đơn. Phải khai thác sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản làm khâu "trung gian" để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội như Lênin đã chỉ ra.
Chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và việc sử dụng các hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng đắn. Đại hội VII của Đảng cũng đã chỉ rõ "... phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất thiết lập từng bước quan hệ sản xuất từ xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng sản xuất chủ nghĩa tiên hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước". Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của kinh tế quốc doanh. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đó là một trong những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước ta. Từ chủ trương đúng đắn đến chủ trương đi vào đời sống là một bằng chứng. Độ dài ngắn của bằng chứng này phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan. Trước hết là năng lực lãnh đạo. Tổ chức quản lý kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới công nghiệp hoá hiện đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận của sự công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, thì một mặt chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại cho chế độ xã hội mới bởi nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu kinh tế kém phát triển quan hệ sản xuất mới không thể thiết lập trên nền tảng của lực lượng cũ. ở đây công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp bằng nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
Hơn nữa sự vận dụng đúng đắn của các quy luật quan hệ sản xuất, phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cần thiết. Bên cạnh đó từng bước cơ sở xây dựng hạ tầng và cơ sở thượng tầng. Đặc biệt là xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thực hiện đa dạng hoá về tình hình sản xuất quản lý và phân phối theo lao động.
3. Thực trạng sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam
Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã xác định công nghiệp hoá "là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" song nước ta vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận thức về công nghiệp hoá.
Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội với những khó khăn gay gắt lạm phát phi mã (năm 1986 là 774,7%).
Khi đó do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực tiễn có khoảng cách quá xa tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất, chế độ bao cấp dẫn đến tình trạng trì chệ trong công việc: ỷ lại lười nhác, phụ thuộc vào Nhà nước. Không năng động sáng tạo bằng công tác được giao, không cần quan tâm đến kết quả đạt được. Việc theo giờ giấc thậm chí đến muộn về sớm, không có sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chưa nói đến việc làm ăn, làm hình thức hiện tượng về tổ chức vô kỷ luật khá phổ biến. Kết quả dẫn đến trong công tác hành chính thì bảo thủ, quan liêu do chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý điều hành không nhạy bén, nên từ trên xuống dưới hoạt động không thống nhất. Đặc biệt là ở địa phương tình trạng lợi dụng cơ sở để mưu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ (đục nước béo cò).
Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém, nghèo khó. Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng quy luật, chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản xuất vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp, vượt trước dựa trên cơ sở suy luận khoa học lôgic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng. Nó cũng phải dựa trên sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận khoa học logic.
Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mặt khác quan trọng hơn là do chưa hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành động trái quy luật, đã không làm những việc phải làm, vận dụng một cách dập khuôn máy móc, giáo điều mô hình kinh tế của người khác, trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng chủ tư tưởng quan duy ý thức. Cả một thời gian dài chúng ta đã quá đề cao vai trò của quan hệ sản xuất. Chúng ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nên tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và bắt về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thiết lập chế độ công hữu với thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể" đây là một sai lầm làm sai quy luật do đó mà ta cần có quan niệm cho đúng về quan hệ sở hữu và quan hệ khác (quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội. Trong nhận thức chúng ta coi các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là phi xã hội chủ nghĩa, bị ép buộc cải tạo một cách sống sượng và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của nó. Kinh tế quốc doanh thì được thừa nhận nên phát triển tràn lan, bất chấp điều kiện về vật chất trình độ quản lý thấp kém hiện có.
Kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả còn kinh tế ngoài quốc doanh lại bị kìm hãm không ngóc đầu lên được. Nền kinh tế tuy đạt được độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp, bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nước ngoài. Con người không được giải phóng và bị lầm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì trệ làm tăng chi phí lớn của cải xã hội.
Do tư tưởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi lên chủ nghĩa xã hội nên đã mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức chịu đựng của các nguồn lực hiện có và khả năng điều hành quản lý của các cấp ngành (1976 có 7000 xí nghiệp đến 1986 có 12.000 xí nghiệp).
Trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta nhiều năm lâm vào khủng hoảng. Trước đây do nóng vội, gượng ép và vi phạm nguyên tắc cơ bản của HTX là "tự nguyện" mang tính chất cương hữu, ồ ạt mọi người không làm nghề gì cũng đều phải vào HTX. Mà quá trình hình thành nền tập thể này lại chưa được chuẩn bị kỹ, một mặt dựa vào kinh tế quốc dân, mặt khác lại dựa vào bao cấp nên dẫn đến tình trạng vốn liếng nhỏ bé, trang bị đơn giản. Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh kém.
Cụ thể là sản lượng gạo, lương thực sản xuất ra không đủ để cung cấp trong nước đời sống người dân khổ cực. Hạt vừng hạt lạc trở nên hiếm hoi nên thị trường trên các chợ (do kế hoạch sản xuất tập trung của HTX, không khuyến khích mà còn cấm đoán mà các hình thức xen canh gối vụ trên đồng ruộng).
Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai, sức lao động vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội, làm cho thị trường rộng lớn của nông thôn không phát triển và từ đó làm hãm các ngành khác phát triển. Về xã hội sự lạc hậu của nông nghiệp và nông thôn làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Đồng thời còn làm tăng thêm các làn sóng di dân từ nông thôn vào thành thị tạo nên những tệ nạn xã hội, ảnh hưởng trật tự an ninh.
Đến khi áp dụng chính sách khoán đất cho nhân dân tự trồng trọt, phá bỏ hợp tác thì nên Nhà nước đã có những bước chuyển mình rất rõ rệt. Lương thực bình quân năm từ 13,3 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980, lên 17,6 triệu tấn trong thời kỳ 1981-1988 và 22,7 triệu tấn 1989-1993. Năm 1993 lương thực đạt gần 25 triệu tấn gần bằng mức đề ra cho 1995, đảm bảo cho nhu cầu trong nước đã có dự trữ và xuất khẩu. Trong 3 năm gần đây bình quân năm xuất khẩu được 1,6 triệu tấn. Có lượng xuất khẩu thức ăn sau dầu mỏ. Nước ta từ một nước thiếu lương thực đã vươn lên đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Nhà nước phát triển thúc đẩy sự phát triển trong các ngành cơ bản quen như công nghiệp, thương mại dịch vụ.
Sản lượng lương thực năm 1993 là 24,5 triệu tấn vượt mức dự tính (23 triệu tấn/95) với khoảng 7 triệu tấn lương thực hàng hoá sản lượng thịt hơi 1 triệu tấn, sữa tươi 15 nghìn tấn.
Trong công nghiệp.
Trong lựa chọn bước đi, đã có lúc chúng thiên về "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp. Mà không coi trọng đúng mức của phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. công nghiệp hoá cũng được hiểu một cách giản đơn là quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ khí hoá trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô lớn. Quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư nhân.
Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năng lực sáng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu không cung cấp đầy đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó nhìn ra bên ngoài khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của con người.
Một hạn chế nữa là chúng ta mắc phải đó là ta đã phủ nhận quy luật giá trị sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường. Thực chất ở đây cũng là do những nhận thức sai lầm, chủ quan nóng vội mà chúng ta đã cho rằng kinh tế nước ta phải tuân theo quy luật giá trị sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường mà không hiểu điều quy luật nhất đó là: nước ta mới ở giai đoạn của thời kỳ quá độ.
4. Một số biện pháp
Để thực hiện được mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao thì không thể nói đến công nghiệp xã hội. Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động cao thì không chỉ dựa vào nông nghiệp, sử dụng lao động thủ công mà phải phát triển mạnh công nghiệp đi lên đối với việc đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hiệu quả và sự phát triển bền vững toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác là phải tiến hành theo hàng hiện đại hoá. Đó là bước đi tất yếu của một quốc gia muốn đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế chung của lịch sử.
Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc CNH - HĐH ở Việt Nam. CNH - HĐH đưa nước ta vượt qua một chặng đường dài đi lên công nghiệp xã hội tính được tình trạng chung đó là sự tụt hậu ngày càng xa của các nước đang phát triển so với các nước phát triển . CNH - HĐH là để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, CNH - HĐH đất nước thì có tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh tế và sự lạc hậu về tiến bộ xã hội.
Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế ở Việt Nam thì năm đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định lại tư tưởng nhận thức một cách đúng đắn hơn: "Không thể nhảy vọt lên một hình thức cao trước khi điều kiện vật chất bảo đảm cho nước ta chưa được chuẩn bị đầy đủ "phải luôn hướng vào lực lượng về học thuyết kinh tế xã hội của Mác. Xác định được đây mới là giai đoạn đầu của kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH phải có những cơ sở phù hợp hơn, đúng đắn hơn. Tất cả phải xuất phát từ thực trạng những điều kiện và thuận lợi trước mắt.
* Khó khăn:
Một vấn đề nổi cộm "chúng ta còn quá lạc hậu, cần phải trang bị mới hiện đại".
Về nông nghiệp: cho đến nay chúng ta vẫn trong tình trạng lạc hậu về năng suất vẫn thấp (một lao động trong nông nghiệp trung bình nuôi 2,5 -3 người so với ở Mỹ, một lao động nông nghiệp nuôi 30 - 40 người). Nông nghiệp chưa thể là chỗ dựa để nâng nhu cầu bình quân đầu người một cách đáng kể nông sản hàng hoá vẫn chưa trở thành nguồn chính mà ta có thể dựa vào đó để xây dựng công nghệ và cơ cấu hạ tầng. Thuế thu nhập từ nông nghiệp không đáng kể.
ở Hải Phòng và Hà Nội: 178,1 tỉ đồng
Đồng bằng sông Hồng 4,6 tỉ. TP. Hồ Chí Minh và vùng ngoại thành là 655 tỉ - SCL 131,8 tỉ.
Về công nghiệp: Chiếm 19% tổng sản phẩm quốc nội, công nghệ chế tạo 10% tỉ trọng công nghiệp. Theo đúng quá trình của Bộ KHCN và môi trường.
Trình độ công nghệ của công nghiệp thuộc giai đoạn 1,2 (thấp) trong giai đoạn phát triển công nghiệp gồm 7 giai đoạn. Sự đóng góp của công nghệ trong công nghiệp trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp (10-20%). Trình độ hiện đại của thiết bị tính chung cả nước (hiệu quả 16%).
Hệ số hiện đại của thiết bị tính chung cả nước chỉ đạt 7% năm (bằng 1/2 tối thiểu của các năm).
Tốc độ phát triển của công nghiệp nặng vẫn nhanh hơn công nghiệp nhẹ.
Công nghiệp ở khu chế tạo tiếp tục tăng: 1989/1988: 81,76%
1990/1989: 95,80% 1991/1990: 99,26%
+ Do chúng ta tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên đã gặp nhiều thử thách gay gắt.
Kết cấu kinh tế ngày càng tăng giữa các nước giàu và nghèo. Ta mất dần lợi thế các tài nguyên và lao động. Sự chênh lệch khá lớn về mức sống. Kết cấu khoa học - kỹ thuật ngày càng lớn.
Nhưng nước ta có những thuận lợi sau:
Nhờ chuyển giao công nghệ nên ta chỉ việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ. Có thể chọn công nghệ mới, phù hợp để phát triển.
Ta có những bài học kinh nghiệm từ các nước đi trước, không mắc phải sai lầm như những nước đó...
Dễ hợp tác để tiến hành công nghiệp hoá.
Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, con người Việt Nam thông minh sáng tạo lại có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước thông qua pháp luật.
* Chính sách cụ thể của Nhà nước ta
Sự phát triển của các nước trên thế giới và sự nghiệp đổi mới ở nước ta củng cố cho chúng ta những bài học lớn về nhận thức.
Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít - cũng như nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Mục tiêu mà Đại hội Đảng lần VIII của Đảng đề ra chính là sự cụ thể hoà hợp thống nhất về hình thức kinh tế - xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội chủ nghĩa. Ta phải luôn nhận thức vận dụng đúng đắn sáng tạo hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ bản chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sự đổi mới với tính chất mới mẻ khô khan và phức tạp của nó - đòi hỏi phải có lí luận khoa học soi sáng. Song phải kết hợp hài hoà giữa lí luận và thực tiễn. Lý luận không phải bỗng nhiên mà có, không phải từ trên trời rơi xuống và không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lực lượng rồi mới tiến hành đổi mới công cuộc không cho phép ta chờ đợi như vậy. Hơn nữa thực tiễn lại là cơ sở của nhận thức của lí luận phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, có cơ sở để khẳng định thành lý luận.
Trong thời hiện đại nay mọi quy luật phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học - xã hội vì vậy trình độ phát triển kinh tế và văn minh xã hội giữa các nước phát triển và chậm phát triển c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34866.doc