Tiểu luận Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Người xác định rõ vị trí và xu thế vận động của từng thành phần kinh tế .Một số thành phần kinh tế cũ :cá thể , tiểu chủ và kinh tế tư bản không còn phù hợp .Những thành phần kinh tế mới :kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể và tư bản nhà nước là động lực để hình thành nền kinh tế nhiều thành phần.

 Nhận thức rõ tính tất yếu của của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, để xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp thực hiện đường lối kháng chiến >>> toàn dân, toàn diện , trường kỳ và tự lực cánh sinh>>> bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, trước hết là lương thực thực phẩm cho cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã xác định nước ta phải phát triển 6 thành phần kinh tế khác nhau ,gồm:

 kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô

 kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ nghĩa

 kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông thôn, có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa

 kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ

 kinh tế tư bản của tư nhân

 kinh tế tư bản quốc gia (2)

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu không phù hợp với LLSX thì nó sẽ kìm hãm thậm chí phá vỡ LLSX Khi QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX , thù theo qui luật chung QHSX cũ sẽ được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đây lực lượng sản xuất phát triển. Do đó trong CNXH thì LLXS là có con người XHCN đóng vai trò quan trọng thì đòi hỏi sự phù hợp của QHSX trong đó có sự mở rộng quan hệ và phát triển của tất cả các thành phần kinh tế 1.2-Cơ sở thực tiễn(từ các nước XHCN khác) 1.2.1-Quá độ ở Liên xô với chính sách Nep(năm 1917) 1.2.1.1-Xuất phát của Liên Xô Cuối năm 1920,nội chiến kết thúc ,nước Nga chuyển sang thời kì thiết kiến trong hòa bình.Do đó chính sách “Kin tế công sản thời chiến “đã làm xong vai trò bất đắc dĩ của nó .Do đó, cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng xã hội chủ nghĩa do Lenin đề ra năm 1918, phải trở lại những quan hệ kin tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp . giữa thành thị và nông thôn.Do những yêu cầu đó ,đại hội X của Đảng sản Bôsêvich Nga đã chủ trương thay bằng chính sách “Kinh tế mới”-NEP 1.2.1.2-Nội dung thực hiện Sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH đã đư ợc V.I. Lênin đề cập ngay từ những ngày đầu của chính quyền Xô viết. Theo Lênin, trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ có sự xen kẽ của 'những yếu tố, những bộ phận nhỏ, những mảnh của chủ nghĩa t ư bản và chủ nghĩa xã hội>>>(1) .Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ sẽ không thuần nhất  và ở đó vẫn tồn tại nhiều thành phần kinh tế đan xen và tác động lẫn nhau, đó là những yếu tố của 5 thành phần kinh tế xã hội khác nhau (kinh tế gia trưởng, tiểu sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa t ư bản tư nhân, chủ nghĩa tư bản nhà nước và CNXH). Những tư t ưởng của Lênin đã được triển khai vào công cuộc xây dựng đất n ước Xô viết và đã đem lại thành công đáng kể trong thời kỳ thực hiện Chính sách kinh tế mới (thay cho chính sách kinh tế thời chiến). Đây là thời kỳ mà về sau này đã đ ược đánh giá rằng chính Lênin đã thực hiện một bư ớc ngoặt cách mạng cực kỳ vĩ đại đối với nền kinh tế Xô viết, hình thành lý luận về một mô hình kinh tế của thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Theo đó nhà nước cho phép một số thị trường giới hạn được tồn tại. Công việc kinh doanh tư nhân nhỏ được cho phép và các hạn chế về hoạt động chính trị được nới lỏng một chút. 1) Thực hiện chế độ thu thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán lúa mì, coi thương nghiệp là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh tế giữa công nghiệp với nền nông nghiệp hàng hoá, giữa thành thị với nông thôn, và sự liên minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân 2) Áp dụng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đó là mắt xích trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội 3) Sử dụng các các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với mọi người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới 4) Thực hiện kế hoạch điện khí hoá nước Nga, coi đó như một trong những điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa 5) Củng cố Chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế; thực hiện chế độ kiểm kê kiểm soát của nhà nước chuyên chính vô sản đối với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh công nông về chính trị 1.2.1.2-Thành tựu đạt được Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản ở cả thành thị và nông thôn .Đến cuối năm 1922, Liên xô đã vựt qua được nạn đói và đến năm 1925, nông nghiệp đã vượt mức trước chiến tranh.Tổng sản lượng lương thực tăng tữ 42.2 triệu tấn(1921)lên đến 74,6 triệu tấn (1925). Ngân sách nhà nước đã được củng cố lại:năm 1925-1926 thu nhập nhà nước tăng lên gấp 5 lần so năm 1922-1923 Trong giai đoạn NEP, sản lượng nông nghiệp không chỉ hồi phục ở mức đã đạt được trước cách mạng Bolshevik mà còn tăng trưởng mạnh. Việc phá bỏ các lãnh địa gần như phong kiến tại các vùng nông thôn ở thời Sa Hoàng trước đây cho phép nông dân có được sự khích lệ lớn nhất từ trước tới nay để tăng cao sản xuất. Khi đã có thể bán thặng dư của họ ra thị trường tự do, sự chi tiêu của nông dân tạo ra một sự bùng nổ trong các lĩnh vực sản xuất tại các vùng đô thị. Kết quả của NEP và sự xoá bỏ lãnh địa trong thời gian Đảng cộng sản củng cố quyền lực từ 1917-1921 là Liên bang sô viết trở thành nhà sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới. 1.2.1-Quá độ ở Trung Quốc với chính sách đổi mới của Đặng Tiểu Bình(1978) 1.2.1.1-Nguyên nhân Thực tiễn :kinh tế Trung Quốc sau 20(1958-1978) thực hiện các đường lối tả khuynh đã rơi vào tình trạng trì trệ kém phát triển Lí luận :Trung Quốc cho rằng công cuộc “chủ nghĩa xã hội hiện thực “ở mỗi nước khác nhau ,đặc là với trung Quốc nền kinh tế còn ở trình độ thấp.Và Trung Quốc cũng phê phán mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung dài gây trì trệ cho nền kinh tế Vì vậy ,Trung quốc cho rằng đất nước đang ở giai đoạn đầu của thời kì quá độ và đây là thời gian thích hợp để thực hiện chế độ cải cách và mở cửa 1.2.1.2-Nội dung Đặng Tiểu Bình là một trong những nhà chính trị kiệt xuất nhất của thế kỉ XX ,ông đã chia tay với những người theo trường phái giáo điều của chủ nghĩa Marx,sửa đổi chủ nghĩa kế hoạch quan liêu tuyệt đối nhờ đó giải phóng tiềm lực của 1/5 dân số của thế giới. Đặng Tiểu Bình là người đầu tiên đề xuất rằng Trung Quốc nên tiến hành cải cách, thừa nhận chính sách mở cửa và tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế. Từ năm 1978, ông đã thúc đẩy việc cải cách. Trong khi còn khoảng 80% dân số Trung Quốc sống ở vùng nông thôn, ông chỉ ra rằng: việc cải cách nên tiến hành ở nông thôn trước khi tiến hành ở các thành phố. Công cuộc cải cách các khu đô thị thường phức tạp hơn ở vùng nông thôn, ông khuyến khích nên khám phá các tiềm năng này một cách táo bạo nhưng cũng bằng sự quan tâm và cẩn trọng. Theo đề xuất của ông, 4 đặc khu kinh tế đã được hình thành và 14 thành phố duyên hải mở cửa với thế giới. Trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi, ông tuyên bố Trung Quốc nên mở rộng hợp tác kinh tế với các nước bên ngoài, thu hút vốn và giới thiệu các kỹ thuật và kỹ năng quản lý tiên tiến của họ để thúc đẩy việc phát triển kinh tế riêng của mình. Các thành phần tư nhân nên được phát triển như là một phần phụ trợ cho các thành phần xã hội vốn dĩ sẽ chiếm ưu thế trong nền kinh tế Trung Quốc. Ông cũng cho rằng một số khu vực và một số người được phép làm giàu, sau đó những người khác sẽ theo gương họ. Sự phát triển của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua đã chứng minh chính sách cải cách và mở cửa của Đặng Tiểu Bình là hoàn toàn đúng đắn. Những chính sách đổi mới có thể được kể đến như: Thay đổi về cơ bản kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ đã kìmhãm kinh tế phát triển Xây dựng kinh tế thị trường Giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội Tìm ra con đường xây dưng CNXH mang màu sắc Trung Quốc 1.2.1.3-Thành tựu đạt được Kinh tế tăng trưởng mạnh :từ 1979 đến 2005 tốc đọ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 9,5%.Năm 2006 GDP Trung Quốc đạt 10,5%và đạt 25.000 tỷ NDt, và trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 trên thế giới sau Mĩ Nhật Đức Từ 1978-2007, tốc độ tăng trưởng trung bình của GDP Trung Quốc là 9,8%, cao hơn 3% so với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của thế giới trong cùng thời kỳ. GDP của Trung Quốc năm 2007 đạt 3.280 tỷ nhân dân tệ (481 tỷ USD), tương đương 23,7% GDP của Mỹ, 74,9% GDP của Nhật Bản và 99,5% GDP của Đức. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc đạt 2.360 USD. Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB), Trung Quốc từ nước có mức thu nhập thấp được đưa vào danh sách những nước có thu nhập thấp trung bình. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và phạm vi kinh doanh mở rộng đã giúp Trung Quốc nhanh chóng giàu có. Số liệu của NBS cho thấy thu nhập tài chính của Chính phủ Trung Quốc đã tăng gấp 45 lần trong vòng 30 năm qua. Giàu có khiến Trung Quốc cung cấp một cách có hiệu quả nguồn tài chính để tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống xã hội cho người dân, giảm thiểu một cách có hiệu quả mọi rủi ro và thiên tai. Số liệu của NBS cho thấy, năm 1978, xí nghiệp quốc doanh chiếm 77,6% tổng sản lượng công nghiệp Trung Quốc. Tuy nhiên, đến năm 2007, tỷ lệ này chỉ còn chiếm 29,5%. Mặc dù tỷ lệ giảm, nhưng kinh tế quốc doanh vẫn là yếu tố quan trọng trong kinh tế Trung Quốc. Đóng góp to nhất của thành phần kinh tế phi tập thể đối với kinh tế Trung Quốc là duy trì sự cân bằng giữa cung và cầu. Trước khi cải cách mở cửa, Trung Quốc phải gánh chịu sự thiếu hụt nghiêm trọng về hàng tiêu dùng và dịch vụ. Người dân chỉ có thể mua được lương thực bằng tem phiếu do chính phủ cấp. Sau năm 1978, khả năng cung cấp hàng tiêu dùng của Trung Quốc tăng nhanh và có thể đáp ứng nhu cầu của người dân. Năm 2007, sản lượng lương thực của Trung Quốc đạt 501,6 triệu tấn, tăng 64,6% so với sản lượng lương thực của năm 1978. Giá trị gia tăng công nghiệp năm 2007 vượt mức 10.000 tỷ nhân dân tệ (1.470 tỷ USD), tăng 23 lần so với năm 1978. Năm 2007, Trung Quốc đứng đầu thế giới về sản lượng sản phẩm nông nghiệp như ngũ cốc, thịt và bông. Các sản phẩm công nghiệp như thép, than đá, xi măng và phân hóa học của Trung Quốc cũng đạt sản lượng hàng đầu thế giới. 2-Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam 2.1-Nền kinh tế Việt Nam thời kì trước quá độ (1954) Về tính chất nền kinh tế :dưới thời thực dân Pháp thông trị nền kinh tế Việt Nam mất dần tính chất phong kiến thuần túy ,trở thành nền kin tế thuộc địa nửa phong kiến ,kinh tế tự cung tự cấp bị thu hẹp sản xuất hàng hóa phát triển nhưng quan hệ sản xuất phong kiến vẫn được duy trì và và tồn tại một cách phổ biến Về trình độ phát triển của nền kinh tế:xuất hiện một số nhân tố mới trong nền kinh tế đó là những cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực giao thông vận tải , những xí nghiệp công nghiệp quy mô lớn sư dụng máy móc hiện đaị .Tuy nhiên sự chuyển biến đó chỉ xuất hiện ở những nơi bị chiếm đóng còn ở vùng nông thôn rộng lớn thì gần như nguyên vẹn nền kinh tế phong kiến lạc hậu .Công nghiệp phát triển nhưng còn rât nhỏ bé.Tóm lại là nước ta đã phải chịu một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu và phải phụ thuộc vào đế quốc và luôn bị kìm hãm . 2.2-Nền kinh tế Việt Nam trong thời kì quá độ Về tính chất nền kinh tế :từ một nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến ,chúng ta đã xây dựng một nền kinh tế dân tộc dân chủ nhân dân .Thoát khỏi sự phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc .Nước ta đã có nên tài chính tiền tệ độc lập,Nhà nước nắm quyền kiểm soát ngoại thương. Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,miền Bắc hoàn toàn giải phóng còn miền Nam vẫ sống dưới ách thống trị của Mĩ-ngụy. Bước vào thời kì quá độ miền Bắc có đặc điểm: Là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu ,chủ yếu dựa vào nền sản xuất nhỏ ,cơ sở kinh tế của chủ ngĩa tư bản lại hết sức kém cỏi và non yếu. Công nghiệp nhỏ bé mới phôi thai.Nông nghiệp và thủ công có tính chất phân tán chiếm bộ phận lớn trong nền kin tế quốc dân.Hơn nữa miền Bắc lại bị tàn phá nặng nề của 15 năm chiến tranh. Và đây cũng là lúc mà chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống trên thế giới. 3-Tư tưởng của Hồ Chí về thời kì quá độ ở Việt Nam và chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. 3.1- Tư tưởng của Hồ Chí về thời kì quá độ ở Việt Nam Trước hết là tư tưởng của Người về bản chất của chủ nghĩa xã hội Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội (CNXH) bao gồm: Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH. Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi. Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xâydựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.Bỏ qua nhưng không có ngĩa là phủ nhận tất cả những thành tựu đã đạt được của nó mà phải biết kết hợp để áp dụng vào thực tiễn Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam. Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói "Chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". Qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mac-lenin ,học hỏi kinh nghiệm của các nước -đặc biệt là Liên xô và Trung Quốc (một nước là cái nôi của chủ nghĩa Mac-lenin, một nước là láng giềng và có nền văn hóa khá tương đồng với nước ta) và thực tiễn tình hình kinh tế Việt Nam trong thời kì này nên trong quan điểm về xây dựng CNXH ở nước ta Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ lên CNXH. 3.2.2-Nội dung Người xác định rõ vị trí và xu thế vận động của từng thành phần kinh tế .Một số thành phần kinh tế cũ :cá thể , tiểu chủ và kinh tế tư bản không còn phù hợp .Những thành phần kinh tế mới :kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể và tư bản nhà nước là động lực để hình thành nền kinh tế nhiều thành phần.  Nhận thức rõ tính tất yếu của của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, để xây dựng nền kinh tế trong thời  kỳ kháng chiến chống Pháp thực hiện đường lối kháng chiến >>> toàn dân, toàn diện , trường kỳ và tự lực cánh sinh>>> bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, trước hết là lương thực thực phẩm cho cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã xác định nước ta phải phát triển 6 thành phần kinh tế khác nhau ,gồm:        kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô          kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ nghĩa          kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông thôn, có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa          kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ         kinh tế tư bản của tư nhân         kinh tế tư bản quốc gia (2) Không những chỉ ra 6 thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh còn nói rõ xu hướng phát triển của các thành phần kinh tế đó. Mặc dù thành phần kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô là thành phần kinh tế đã lỗi thời, nhưng để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, thu hút số địa chủ vừa và nhỏ tham gia  kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương chỉ thực hiện chế độ giảm tô, giảm tức nhằm hạn chế dần sự bóc lột và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này  đóng góp cho cuộc kháng chiến Đối với nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội,thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động,Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển.Về tổ chức hợp tác xã,Hồ Chí Minh nhấ mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đén cao, tự nguyện cùng có lợi , chống chủ quan gò ép hình thức.Đối với người làm nghề thủ công và lao ddonhj riêng lẻ khác,Nhà nước bảo hộ về quyền sở hữu tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác . Đối với nhà tư bản công thương,vì họ đã tham gia cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đong góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp pần xây dựng nước nhà, xây dựng CNXH nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo CNXH bằng hình thức tư bản nhà nước Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lí kinh tế. Quản lí kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch tóan, đem lại hiệu quả cao, sự dụng tốt các đoàn bẩy trong phát triển sản xuất Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực hiện nghuyên tắc phân phối theo lao động :làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng .Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khóan trong sản xuất “Chế độ làm khoán là một điều kiện của CNXH, nó khuyến khích nhười công nhân luôn luôn tiến bộ , cho nhà máy tiến bộ.Làm khoán là lợi ích chung và là lợi ích riêng…;làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay” Trên thế giớ hiện nay các quốc gia đang cố gắng xây dựng mô hình kin ế có sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là cốt lõi.Riêng với nước ta việc thực hiện chủ trương này được đánh dấu vào mốc năm1986. 4-Sự đúng đắn và sáng suốt trong chủ trương 4.1-Cơ sở lí luận 4.1.1- Tính tất yếu khách quan và vai trò của nền kinh tế nhiều thành phần: Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế. Chúng cùng tồn tại và phát triển như một tổng thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan. Bới vì: Một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ như: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân... để lại chúng đang còn có tác dụng đối với sự phát triển LLSX. Một số thành phần kinh tế mới hình thành trong quá trình cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khác quan, có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Sự tồn tại nền nhiều thành phần kinh tế là một hiện tượng khách quan cho nên chúng đều có tác dụng tích cực đói với sự phát triển của LLSX. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho PTSX cũ chỉ mất đi khi không còn tác dụng đối với sự phát triển LLSX.  Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá lên CNXH, suy cho dến cùng là do quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX quy định. Thời kỳ quá độ ở nước ta do trình độ LLSX còn thấp, lại phân bố không đều giữa các ngành, vùng, nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình, hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Vai trò của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần: Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là tất yếu khách quan, mà còn là động lực thúc đẩy, kích thích sự phát triển LLSX xã hội. Bởi vì: Một là: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của LLSX. Vì vì vậy nó có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hai là: Nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, toạ tiền đề để đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trnạg độc quyền. Điều đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân… Ba là: Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những " cầu nối", " trạm trung gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế dộ TBCN. Bốn là: Phát triên mạnh cá thành phần kinh tế à cùng với nó là các hình thức sản xuất kinh doanh là một nội dung co bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta. Năm là: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được nhiều lợi ích kinh tế cảu các giai cấp tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước: như sức lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý… Đồng thời cho phép khai thác kinh nghiệm tổ chức quản lý và khoa học, công nghệ mới trên thế giới 4.2-Cơ sở thực tiễn 4.2.1-Thành tựu đạt được(từ năm 1986 đến nay) Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385 USD). Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .  Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992-1997 tăng bình quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,23%. GDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2005 là 639 USD, năm 2007: 835 USD và năm 2008 đạt 1.024 USD. Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9% GDP. Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một quốc gia bị phong tỏa, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm với mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. 4.2.2-Tiếp tục được vận dụng đến ngày nay Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất... Cơ cấu thành phần kinh tế đã tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25893.doc