Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2288 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc tham gia của người bào chữa trong quá trình tố tụng vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lí do. Giấy chứng nhận bào chữa phải được lưu trong hồ sơ vụ án như một tài liệu chính thức để tòa án cấp trên kiểm tra tòa án cấp dưới. Đây là điểm mới của bộ luật TTHS năm 2003, quy định về nghĩa vụ xem xét, cấp giấy chứng nhận bào chữa của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án; quy định thời hạn cụ thể của việc xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Quy định này có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Theo quy định tại khoản 1 điều 56 Bộ luật TTHS thì người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Hiện nay, do tình hình dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn nhiều mặt hạn chế nên người bào chữa chủ yếu trong các vụ án hình sự vẫn là Luật sư.
1.1. Luật sư:
Là người hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một đoàn luật sư theo quy định của pháp luật. Điều 2 luật Luật sư năm 2006 cũng đưa định nghĩa: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Để trở được công nhận là một luật sư thì cá nhân phải đáp ứng các điều kiện như: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một đoàn luật sư.(Điều 10 và điều 11 luật Luật sư năm 2006)
Luật sư được lựa chọn hình thức để hành nghề theo một trong hai hình thức là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân (Điều 23 luật Luật sư năm 2006), đây là quy định mới của luật Luật sư năm 2006 so với quy định của pháp lệnh Luật sư năm 2001, quy định này là sự mở rộng diện các luật sư được tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự, qua đó các luật sư không còn bị giới hạn bởi việc phải tham gia vào tổ chức hành nghề luật sư mới có thể thực hiện vai trò người bào chữa trong vụ án hình sự mà có thể thực hiện vai trò này ngay cả khi hoạt động dưới hình thức cá nhân.
Theo quy định tại điều 32 và luật Luật sư năm 2006 thì hình thức tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng Luật sư và công ty luật, công ty luật phải được tổ chức dưới một trong hai hình thức là công ty luật hợp danh hoặc công ty luật TNHH. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật này phải tuân theo các quy định của luật Luật sư năm 2006 và các luật khác có liên quan. Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà luật sư đó là thành viên. Trong trường hợp luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên. Quy định này so với pháp lệnh luật sư năm 2001 thì có phạm vi rộng hơn rất nhiều, pháp lệnh luật sư chỉ quy định hai hình thức tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh là hạn chế rất lớn cho việc hành nghề luật của các luật sư.
1.2. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào chữa. Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khó nhưng lại khó ở chỗ: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà người thân thích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy không phải là luật sư, bào chữa viên nhân dân nhưng lại yêu cầu được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vì họ là người có trình độ pháp lý, đã từng hoạt động trong các cơ quan pháp luật nay nghỉ hưu. Vậy những người này có được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay không? Về vấn đề này vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau nhưng thực tiễn xét xử đã có trường hợp tòa án đã công nhận và cấp giấy chứng nhận cho họ để họ thực hiện việc bào chữa cho bị cáo. Ví dụ: Ngày 5-4 vừa qua, TAND tỉnh Phú Yên đã cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho một trường hợp như trên(1), sau sự công nhận này vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều cả đồng ý và không đồng ý, tuy nhiên tôi cho rằng sự công nhận này là hợp lý và cần được nhân rộng hơn trong thực tiễn xét xử, nó giúp cho việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tốt hơn, bởi lẽ với thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay, đời sống nhân dân còn thấp nên việc mời luật sư bào chữa là chuyện xa vời, nếu chỉ công nhận vai trò bào chữa của luật sư thì khả năng tài chính của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người thân của họ khó có thể chi trả cho các dịch vụ pháp lý này, làm cho quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị hạn chế.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam ở nước ngoài.
1.3. Bào chữa viên nhân dân:
Là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống. Theo khoản 3 điều 57 của Bộ luật TTHS năm 2003 thì: " Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình ".Trong thực tế bào chữa viên nhân dân thường là người của các tổ chức đoàn thể đứng ra bào chữa cho thành viên của tổ chức mình như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.... Điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân tuy không được pháp luật quy định nhưng tối thiểu cũng phải đáp ứng được một số điều kiện cơ bản như: là công dân Việt Nam, có tư cách đạo đức tốt, đã thành niên, không bị nhược điểm về thể chất và tâm thần, có năng lực hành vi đầy đủ, có trình độ hiểu biết…vv.
2. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa:
Người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho người bào chữa được thực hiện chức năng của mình Bộ luật TTHS năm 2003 quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
2.1. Quyền của người bào chữa:
Theo điều 19 Bộ luật TTHS năm 2003, người bào chữa có quyền bình đẳng với kiểm sát viên trong một vụ án hình sự. Khoản 1 điều 58 Bộ luật này thì: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”. Tại khoản 2 điều 58 Bộ luật TTHS quy định người bào chữa có các quyền sau:
- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có các căn cứ quy định tại điều 42 và điều 46 của Bộ luật TTHS và xét thấy việc những người này tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.
- Gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam: Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết cảu vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật TTHS năm 2003. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
2.2. Nghĩa vụ của người bào chữa:
Người bào chữa trong tố tụng hình sự có những nghĩa vụ nhất định, khoản 3 điều 58 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định cho người bào chữa các nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Việc giao nhận tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại điều 95 của bộ luật TTHS năm 2003.
- Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Nghĩa vụ không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can. bị cáo mà mình bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.
- Nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; nghĩa vụ không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
- Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của tòa án; nghĩa vụ không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa;
- Nghĩa vụ không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (khoản 4 điều 58 Bộ luật TTHS).
II. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA:
BLTTHS năm 2003 ra đời với các quy định về người bào chữa là một bước tiến quan trọng, tuy nhiên sau hơn tám năm thực hiện, các quy định này không tránh khỏi bộc lộ những điểm hạn chế và thiếu sót chưa hoàn thiện. Dưới đây là những điểm còn hạn chế, thiếu xót đó và hướng hoàn thiện theo quan điểm của cá nhân tôi:
1. Hoàn thiện các quy định về người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể là Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; và bào chữa viên nhân dân. Như vậy, về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong TTHS. Tuy nhiên, trong thực tiễn TTHS ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định cụ thể, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn khi xem xét và cấp giấy chứng nhận bào chữa cho các đối tượng này, việc cấp hay không cấp giấy chứng nhận bào chữa cũng gây rất nhiều tranh cãi. Mặt khác, tuy có một số người tham gia với tư cách bào chữa viên nhân dân và có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức Mặt trận tổ quốc, nhưng nhìn chung chất lượng hành nghề của phần đông những người này không cao, gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật, lại không được đào tạo chuyên sâu về các kĩ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp nên việc những người này tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự trên thực tế là rất ít, hãn hữu mới có người được tòa án chấp nhận tư cách bào chữa. Như vậy theo ý kiến của tôi trong thời gian tới cần hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về người bào chữa theo hướng:
- Thư nhất, cần xây dựng các quy định pháp luật cụ thể để hướng dẫn việc thi hành điểm b khoản 1 điều 56 BLTTHS theo hướng quy định các trường hợp nào thì người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, nguyên tắc và trình tự thủ tục thực hiện quyền bào chữa của đối tượng này.
- Thứ hai, nên bỏ quy định tại điểm c khoản 1 điều 56 BLTTHS bởi hiện nay, cùng với việc thực thi Luật Luật sư năm 2006, Liên đòan luật sư Việt Nam ra đời đã khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của đội ngũ luật sư Việt Nam, hướng tới việc xây dựng một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp thực hiện các phạm vi hành nghề tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý phủ kín các mặt của đời sống xã hội và đời sống tư pháp. Trong khi đó đội ngũ bào chữa viên nhân dân thì yếu kém, thiếu sự chuyên nghiệp và thiếu hiểu biết pháp luật và ít được công nhận khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự, do vậy theo tôi nên bỏ quy định về bào chữa viên nhân dân để việc tham gia tố tụng của người bào chữa trở nên chuyên nghiệp hơn. Cụ thể sửa chữa khoản 1 điều 56 thành: “1. Người bào chữa là: a. Luật sư; b. Người bào chữa có thể không phải là luật sư nhưng làm nhiệm vụ của luật sư bào chữa và những người đó được các cơ quan tiến hành tố tụng công nhận và họ làm nhiệm vụ bào chữa như là một luật sư bào chữa trong vụ án đó.
- Thứ ba, Vấn đề từ chối người bào chữa được quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 cần hoàn thiện thêm vì quy định như vậy còn có bất cập, không hợp lý. Việc không phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 điều luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Đối tượng được quy định tại điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b. Những đối tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy đủ hành vi từ chối người bào chữa của mình và họ biết được khả năng và hậu quả có thể xẩy ra khi họ từ chối người bào chữa. Và vì vậy để cho họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ chối người bào chữa là hợp lý. Còn những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần thì liệu họ có nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về hành vi từ chối người bào chữa của mình hay không? Với những ý kiến nói trên, tôi cho rằng cần phải sửa đổi, bổ sung đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 như sau: “Những trường hợp được quy định tại điểm a khoản 2 điều này sau khi luật sư tham gia bào chữa bị can, bị cáo vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối luật sư bào chữa. Còn đối với những trường hợp được quy định tại điểm b khoản 2 điều này thì bị can, bị cáo và đại diện hợp pháp của họ sau khi luật sư tham gia bào chữa vẫn có quyền yêu cầu thay đổi luật sư bào chữa và nếu họ từ chối luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản ghi rõ lý do từ chối trước khi quyết định”. Bên cạnh đó cần mở rộng phạm vi bào chữa bắt buộc đối với bị can, bị cáo bị xử lý về tội có khung hình phạt lên đến 20 năm tù.
Song song với việc hoàn thiện pháp luật, việc đào tạo nâng cao trình độ của người bào chữa cũng rất cần thiết, cần tăng cường đào tạo đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng, có năng lực và đạo đức nghề nghiệp để thực hiện tốt hơn vai trò là người bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc tham gia của người bào chữa trong quá trình tố tụng vụ án hình sự:
Điều 58 BLTTHS quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong trường hợp bắt người theo quy định tại điều 81 và điều 82 BLTTHS thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Tuy nhiên quy định này lại chưa đề cập tới thời điểm kết thúc vai trò của người bào chữa trong vụ án hình sự, do vậy theo tôi nên bổ xung khoản 1 điều 58 BLTTHS thành: “1.Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can và kết thúc khi người bị tạm giam , bị can, bị cáo không còn yêu cầu luật sư cho họ. Trong trường hợpbắt người theo quy định tại điều 81 và điều 82 của Bộ luật này thì luật sư tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định luật sư bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”
- Các quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Các điều 48,49, 50 BLTTHS), cần quy định cụ thể về quyền của họ được giải thích quyền có luật sư ngay khi bị bắt và có quyền im lặng khi không có sự tham gia của luật sư bào chữa. Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem là mất dân chủ, không khách quan… Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra, có mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra luật sư chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có mặt luật sư. Về nguyên tắc, khi luật sư tham gia đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có luật sư mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Ví dụ: Luật sư muốn hỏi bị can phải được điều tra viên đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có luật sư bào chữa thì phải hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản cung buộc tội ghi lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt luật sư (mặc dù Điều 305 BLTTHS quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định luật sư) nhưng họ không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối luật sư trong khi họ chưa hề thực hiện Điều luật là chỉ định luật sư thì bản cung lại được chấp nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng vẫn có giá trị pháp lý buộc tội. Tôi nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự tới đây phải đặc biệt quan tâm, giải quyết thấu đáo. Để khắc phục, tôi cho rằng BLTTHS cần quy định chi tiết theo hướng:
+ Ngoài điểm điều luật đã quy định điều tra viên thông báo cho luật sư thời gian, địa điểm hỏi cung bị can; cách thức trao đổi, liên hệ để thông báo với luật sư, những nguyên tắc và trách nhiệm bảo mật thông tin điều tra. Khi tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề, nội dung điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền giải thích pháp luật cho bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời vấn đề điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền phản đối câu hỏi mớm cung, bức cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản hỏi cung có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác định tình trạng sức khỏe và tâm thần của bị can khi hỏi cung.
+ Bổ xung điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS theo tinh thần: luật sư có quyền gặp riêng làm việc với người bị tạm giữ,bị can, bị cáo khi cần thiết. trong trường hợp đặc biệt, một số tội cụ thể luật sư có quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của cán bộ tố tụng. Không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp.
+ Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều tra, truy tố mà không có sự tham gia của luật sư thì không được công nhận là chứng cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta. Ở những nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can, bị cáo có quyền từ chối cung khai nếu vắng mặt luật sư. Sự có mặt của luật sư trong các buổi lấy cung có 2 ý nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung, bức cung, nhục hình; và không để xảy ra tình trạng phản cung, bác lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc lấy cung đã có người thứ ba chứng kiến.
- Bộ luật TTHS hiện hành vẫn còn hạn chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho phép luật sư chỉ thu thập chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân thích của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật quốc gia, bí mật công tác. Nhưng thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở những người và các cơ quan, tổ chức nêu trên mà còn tồn tại ở những người khác có lưu giữ hoặc biết về những tình tiết liên quan có lợi cho họ. Mặt khác theo quy định của BLTTHS thì l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- q34.doc