Trong quy định tại Điều 34 của Hiến pháp 1959, Nhà nước ta đã ghi nhận một số quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và khẳng định rõ: “Nhà nước giúp đỡ và khuyến khích tính sáng tạo của công dân.”. Các quan điểm nói trên đã tiếp tục được kế thừa và phát triển trong quy định của Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992.
Trong những năm 1959, 1960, một số văn bản pháp luật liên quan đến SHCN đã bắt đầu được hình thành, song chủ yếu mới chỉ dừng lại các quy định khuyến khích các hoạt động sáng kiến. Chỉ trong những năm của thập kỷ 80, pháp luật về SHTT mới thực sự có những bước tiến quan trọng. Năm 1986, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 142/HĐBT, đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh lĩnh vực quyền tác giả. Cũng trong thời gian này, một số văn bản pháp luật về SHCN đã được ban hành nhằm bảo hộ một số đối tượng truyền thống của quyền SHCN như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, và các sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất. Tiếp theo đó, năm 1989, Pháp lệnh Bảo hộ quyền SHCN và năm 1994, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả cũng đã được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh một cách toàn diện và đầy đủ các khía cạnh của việc bảo hộ quyền tác giả và quyền SHCN.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2711 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tuệ
2.1. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ
2.1.1. Tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ được hiểu theo nghĩa rộng là kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ của con người. Trong các tài liệu nghiên cứu của nước ngoài, tài sản trí tuệ được hiểu một cách cụ thể và rất rộng. Đó là bất kỳ một nội dung tri thức nào do tổ chức hoặc cá nhân nắm giữ, không phụ thuộc việc nó được bảo hộ bởi pháp luật hay chỉ có tính hữu ích thông thường, chỉ cần nó có giá trị đối với ai đó. Trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển, tài sản trí tuệ đã trở thành đối tượng được tính đến của các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế như: kế toán và kiểm toán, ngân hàng, thương mại và tài chính, quản trị nhân sự v.v. Trong các hoạt động này, tài sản trí tuệ được tiếp cận khá đa dạng, ví dụ trong Bảng cân đối tài sản không truyền thống bao gồm các giá trị của các đối tượng thuộc tài sản trí tuệ như nhân sự trình độ cao, vốn trí tuệ…
Dưới góc độ pháp lý, tài sản trí tuệ thường được hiểu hẹp hơn nhiều, kể cả trong pháp luật của các nước phát triển do nhu cầu đối với loại tài sản này và khả năng điều chỉnh pháp luật một cách thành công với nó. Cụ thể, tính hữu ích và lợi ích thu được từ tài sản trí tuệ có thể dễ dàng nhận diện, song khả năng điều chỉnh tài sản này dưới góc độ là đối tượng của quyền sở hữu là điều không phải lúc nào cũng dễ dàng trong mọi trường hợp và đối với mọi loại tài sản trí tuệ, nhất là khi thế giới chưa có được cách tiếp cận thống nhất về bản chất và các loại tài sản trí tuệ. Chính vì vậy, hầu hết các nước hiện đang điều chỉnh tài sản trí tuệ dưới góc độ là đối tượng của quyền sở hữu chỉ với quyền sở hữu trí tuệ. Nói một cách ngắn gọn, tài sản trí tuệ thường được đồng nhất với quyền sở hữu trí tuệ. Khuynh hướng này còn kéo dài do bản chất của tài sản trí tuệ là tài sản vô hình nên việc định hình được để bảo hộ là điều không dễ, trừ các quyền sở hữu trí tuệ truyền thống đã được xác định và điều chỉnh từ hàng trăm năm nay. Như vậy, việc mở rộng khái niệm tài sản trí tuệ ra ngoài các quyền sở hữu trí tuệ chưa hiện thực và khó có thể xảy ra trong tương lai gần do đòi hỏi việc nghiên cứu, thử nghiệm và kiểm nghiệm trên thực tế, nhất là ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam là thành viên, Quan điểm đồng nhất tài sản trí tuệ với quyền sở hữu trí tuệ đã được thể hiện rõ trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam, cụ thể, tài sản trí tuệ bao gồm:
(i) Các đối tượng của quyền tác giả (gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa) và các đối tượng của quyền liên quan đến quyền tác giả (gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng; tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá);
(ii) Các đối tượng của quyền SHCN (gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý);
(iii) Đối tượng của quyền đối với giống cây trồng (gồm giống cây trồng và vật liệu nhân giống).
2.1.2. Bản chất của tài sản trí tuệ
(i) Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình: tài sản trí tuệ không có bản chất vật lý và chúng tồn tại dưới dạng các thông tin, tri thức chứa đựng sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người, do đó, tài sản trí tuệ có khả năng lan truyền và nhiều người có thể cùng độc lập chiếm giữ và sử dụng cùng một lúc.
(ii) Tài sản trí tuệ có thể xác định được về bản chất (nội dung), phạm vi (giới hạn), chức năng, công dụng và giá trị.
(iii) Tài sản trí tuệ có thể kiểm soát được: con người có thể kiểm soát và tác động đến tài sản trí tuệ thông qua các hành vi: sản xuất, sử dụng (khai thác), duy trì, phát triển, mua bán, trao đổi, cho thuê, góp vốn… nhằm những mục đích nhất định, trong đó mục đích quan trọng nhất là tạo ra giá trị (vật chất hóa) tài sản trí tuệ.
(iv) Tài sản trí tuệ có khả năng sinh lợi: khi được sử dụng (bán, chuyển giao, cho thuê, trao đổi,…), tài sản trí tuệ có khả năng đem lại cho người khai thác, sử dụng nó các lợi ích vật chất.
(v) Tài sản trí tuệ mang đặc tính sáng tạo và đổi mới: khi được tạo ra, tài sản trí tuệ phải là một đối tượng mới hoặc là một đối tượng đã biết nhưng được bổ sung cái mới (được đổi mới). Nói theo cách khác, mỗi một tài sản trí tuệ là một sản phẩm của hoạt động sáng tạo.
2.1.3. Quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ:
Theo tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì “quyền sở hữu trí tuệ” bao gồm các quyền liên quan tới các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học; chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình; sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người; các phát minh khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại; bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh và tất cả các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hoặc nghệ thuật”. Phù hợp với thông lệ quốc tế, tại Việt Nam, quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ (quyền SHTT) được xác định trong Luật Sở hữu trí tuệ như sau: “là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghệp và quyền đối với giống cây trồng”.
Quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ mang một số đặc tính sau đây:
(i) Về căn cứ xác lập: Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ dựa trên hai nhóm căn cứ khác nhau:
- Nhóm quyền phát sinh một cách tự nhiên: là quyền được tự động phát sinh cùng với sự ra đời của tài sản trí tuệ, nếu đáp ứng một số điều kiện nào đó mà không cần phải thực hiện thủ tục đăng ký xác lập quyền tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được phát sinh một cách tự nhiên bao gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng; tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá), quyền đối với tên thương mại, bí mật kinh doanh.
- Nhóm quyền phát sinh trên cơ sở đăng ký: là quyền chỉ được xác lập khi thực hiện thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Các tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở đăng ký bao gồm sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng.
(ii) Về các hình thức sở hữu: Tài sản trí tuệ có thể thuộc sở hữu của Nhà nước, sở hữu của tập thể hoặc sở hữu của cá nhân và trên thực tế, phần lớn các tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của cá nhân:
- Tài sản trí tuệ thuộc sở hữu Nhà nước: bao gồm các chỉ dẫn địa lý, tài sản trí tuệ được tạo ra trên cơ sở sử dụng kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật của Nhà nước và các tài sản trí tuệ mà Nhà nước có được từ hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sở hữu, nhận góp vốn...;
- Tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của tập thể: bao gồm tài sản trí tuệ được tạo ra trên cơ sở sử dụng kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật của tập thể.
- Tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của cá nhân: bao gồm các tài sản trí tuệ được tạo ra trên cơ sở sử dụng kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật của cá nhân và các tài sản trí tuệ mà cá nhân có được trên cơ sở nhận chuyển nhượng quyền sở hữu theo hợp đồng, được thừa kế…
2.1.4. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ
Bảo hộ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, vì các lý do sau đây:
a) Tài sản trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế:
Tỷ trọng giá trị của tài sản trí tuệ và tài sản vô hình nói chung trong tổng số giá trị tài sản của doanh nghiệp và trong nền kinh tế ngày càng cao. Tại một số doanh nghiệp và một số nước, tỷ lệ đó đã vượt quá 50%, chẳng hạn tỷ lệ này ở Hoa Kỳ trong năm 1982 là 38% nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 70%; Tại Anh, khoảng một nửa giá trị gia tăng năm 1997 là do các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức mang lại, trong khi đó, con số này ở Đức là 60%; Trên thế giới, có nhiều doanh nghiệp (Gillette, Coca-Cola, Microsoft, Yahoo…) giá trị tài sản vô hình chiếm tới trên 80% trong tổng số giá trị tài sản của doanh nghiệp. Tài sản trí tuệ trở thành một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất và là động lực của sự phát triển. Trong khi đó, thực tiễn hiện nay ở nước ta cho thấy mặc dù đã có nhiều doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của tài sản trí tuệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhưng số lượng các doanh nghiệp thực sự quan tâm đến việc tạo lập, đăng ký xác lập quyền đối với tài sản trí tuệ chiếm tỷ lệ chưa cao, nhiều doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
b) Bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ là công cụ khuyến khích, thúc đẩy một cách hữu hiệu hoạt động sáng tạo khoa học công nghệ, văn hóa - xã hội và trong kinh doanh
Thông qua việc thừa nhận và bảo vệ của pháp luật đối với quyền sở hữu tài sản trí tuệ mà chủ thể (người nắm giữ) các quyền đó mới có thời gian, môi trường pháp lý thuận lợi để tiến hành việc sử dụng, khai thác tài sản trí tuệ thuộc quyền sở hữu của mình, nhờ đó không những có thể bù đắp các chi phí đầu tư để tạo ra tài sản trí tuệ mà còn có thể thu được lợi nhuận từ việc khai thác tài sản. Do vậy, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ là một công cụ đắc lực, không thể thay thế trong việc thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, bao gồm cả sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học - công nghệ lẫn kinh doanh.
b) Bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ là công cụ hữu hiệu khắc phục các lệch lạc trong hoạt động thương mại, bảo đảm cạnh môi trường tranh lành mạnh
Tài sản trí tuệ rất dễ bị xâm phạm (do dễ bị sao chép, bắt chước), dó đó, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ đóng vai trò một công cụ đắc lực ngăn ngừa và chặn đứng các tệ nạn sao chép các sản phẩm có uy tín, sản xuất, buôn bán hàng nhái, hàng giả... đang ngày càng tăng và gây ra hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Các biện pháp chế tài có tác dụng xử lý và răn đe những người thực hiện các hành vi xâm phạm, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và góp phần khắc phục các biểu hiện lệch lạc trong hoạt động thương mại.
c) Bảo hộ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ là công cụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế, khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ
Trong nền kinh tế mới, sự giàu có dựa vào chiếm hữu tài sản vật chất đã dần được thay thế bằng việc nắm giữ các tri thức - nguồn của cải vô cùng to lớn trong xã hội. Các doanh nghiệp ngày càng nhận ra giá trị tiềm ẩn của SHTT và tăng cường các hoạt động quản lý, sử dụng, khai thác tài sản trí tuệ của mình. Việc bảo hộ tốt quyền sở hữu tài sản trí tuệ trở thành nhân tố quan trọng khuyến khích các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển nền kinh tế của đất nước, thúc đẩy các hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ, qua đó sẽ góp phần cải thiện vị thế của quốc gia trong cuộc cạnh tranh với các nước khác nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư và khuyến khích các hoạt động chuyển giao, ứng dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại.
2.2. Hệ thống pháp luật hiện hành về sở hữu đối với tài sản trí tuệ
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống văn bản pháp luật về sở hữu đối với tài sản trí tuệ của nước ta
Trong quy định tại Điều 34 của Hiến pháp 1959, Nhà nước ta đã ghi nhận một số quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và khẳng định rõ: “Nhà nước giúp đỡ và khuyến khích tính sáng tạo của công dân...”. Các quan điểm nói trên đã tiếp tục được kế thừa và phát triển trong quy định của Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992.
Trong những năm 1959, 1960, một số văn bản pháp luật liên quan đến SHCN đã bắt đầu được hình thành, song chủ yếu mới chỉ dừng lại các quy định khuyến khích các hoạt động sáng kiến. Chỉ trong những năm của thập kỷ 80, pháp luật về SHTT mới thực sự có những bước tiến quan trọng. Năm 1986, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 142/HĐBT, đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh lĩnh vực quyền tác giả. Cũng trong thời gian này, một số văn bản pháp luật về SHCN đã được ban hành nhằm bảo hộ một số đối tượng truyền thống của quyền SHCN như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, và các sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất. Tiếp theo đó, năm 1989, Pháp lệnh Bảo hộ quyền SHCN và năm 1994, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả cũng đã được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh một cách toàn diện và đầy đủ các khía cạnh của việc bảo hộ quyền tác giả và quyền SHCN.
Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước ta được ban hành, các quy định tại Phần thứ sáu của Bộ luật về quyền SHTT và chuyển giao công nghệ đã đánh dấu một bước tiến quan trọng về hoạt động lập pháp của nước ta trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, một số quy định có liên quan đến SHTT cũng đã được thể hiện trong các đạo luật chuyên ngành như Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Luật Hải quan, Luật Cạnh tranh... Năm 2005, Bộ luật Dân sự mới đã được ban hành, thay thế cho Bộ luật Dân sự 1995. Việc bảo hộ quyền SHTT vẫn được quy định tại Phần thứ sáu, nhưng chỉ bao gồm các quy định mang tính nguyên tắc, các quy định cụ thể chủ yếu được điều chỉnh trong Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành năm 2005. Sau khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành, một loạt các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các bộ, ngành có liên quan cũng đã được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả, quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng. Trong quan hệ quốc tế, cho đến nay, Nhà nước ta đã tham gia nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh vực SHTT.
2.2.2. Nhận định về thống pháp luật hiện hành về sở hữu đối với tài sản trí tuệ
Các văn bản pháp luật về sở hữu đối với tài sản trí tuệ của nước ta đã bao quát một số nội dung cơ bản như các nguyên tắc và một số chính sách bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ; điều kiện, căn cứ phát sinh, xác lập, trình tự và thủ tục đăng ký xác lập quyền sở hữu tài sản trí tuệ; chủ thể có quyền sở hữu tài sản trí tuệ, nội dung và giới hạn các quyền của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, việc bảo vệ (thực thi) quyền SHTT và các cơ chế hỗ trợ hoạt động bảo hộ quyền SHTT.
Có thể nhận định một cách tổng quát rằng hệ thống văn bản pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ của nước ta đã được hoàn thiện theo hướng ngày càng đồng bộ, từng bước đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với các chuẩn mực trong các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam là thành viên, từng bước góp phần xây dựng nền móng ý thức tôn trọng pháp luật về SHTT của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy, khuyến khích các hoạt động sáng tạo; tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy đã đạt được những thành tựu nhất định, song có thể nói hệ thống văn bản pháp luật về SHTT của nước ta vẫn còn tồn tại một số khiếm khuyết, bất cập, thể hiện chủ yếu ở các khía cạnh sau đây:
(i) Hệ thống văn bản pháp luật còn tương đối cồng kềnh và phức tạp do một số quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến việc phải ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành;
(ii) Quy định của các văn bản pháp luật về SHTT còn tồn tại những điểm vướng mắc, bất cập, ví dụ: một số quy định còn trùng lặp, chồng chéo nhau (như quy định giữa Phần thứ sáu của Bộ luật Dân sự với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ); một số quy định còn thiếu tính khả thi, chưa phù thực sự hợp với tình hình thực tế (như quy định về chế độ nhuận bút đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học); một số quy định còn mâu thuẫn nhau (như quy định về cơ chế hạch toán tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp, cơ chế quản lý, khai thác tài sản trí tuệ được tạo ra từ nguồn kinh phí của Nhà nước);
(iii) Chưa đảm bảo được tính đồng bộ trong quy định giữa các văn bản pháp luật về SHTT với các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực SHTT:
- Pháp luật về cạnh tranh chưa có quy định cụ thể để xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN;
- Pháp luật về tài chính chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về xác định giá trị của tài sản trí tuệ, cơ chế hạch toán tài sản trí tuệ trong các doanh nghiệp; chưa có quy định hướng dẫn cụ thể và đầy đủ việc quản lý, khai thác có hiệu quả các tài sản trí tuệ được tạo ra từ nguồn kinh phí của Nhà nước;
- Pháp luật về doanh nghiệp chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về xử lý tài sản trí tuệ khi tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp của Nhà nước, việc góp vốn liên doanh, liên kết bằng tài sản trí tuệ;
- Pháp luật về thi hành án chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về thi hành án đối với tài sản trí tuệ;
- Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về xử lý tài sản trí tuệ trong trường hợp dùng tài sản trí tuệ để thế chấp, cầm cố trong các giao dịch bảo đảm.
2.3. Một số thách thức, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ
2.3.1. Một số thách thức đặt ra đối với hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
a) Trong bối cảnh của nền kinh tế tri thức hiện nay, khi tài sản trí tuệ đang trở thành một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất và là động lực của sự phát triển thì nguồn lực tài sản trí tuệ của nước ta còn rất nhỏ bé và hầu như không đáng kể, nếu chỉ so sánh với một số nước Châu Á và trong khu vực (ví dụ: về sáng chế - một trong các tài sản trí tuệ quan trọng nhất, trong khoảng thời gian 27 năm (từ 1981-2008) số lượng sáng chế của Việt Nam là 810; trong khi đó, số lượng sáng chế chỉ tính riêng trong năm 2007 của Thái Lan là 118, Malayxia: 338, Singapo là 474, Trung Quốc là 31.945, Hàn Quốc là 91.645, Nhật Bản là 145.040…). Những con số nói trên cho thấy sự tụt hậu và trình độ công nghệ của nước ta đang ở khoảng cách rất xa so với thế giới, nguồn lực về tài sản trí tuệ của nước ta còn rất nhỏ bé, so với ngay cả với một số nước trong khu vực, như Thái Lan, Singapo,...
b) Tăng cường hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ là đòi hỏi mang tính chất sức ép đối với các nước đang phát triển
Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ theo chuẩn mực chung đang trở thành nội dung và điều kiện tham gia quan hệ thương mại quốc tế và trở thành đòi hỏi mang tính chất sức ép từ các nước phát triển áp đặt cho các nước khác, đặt các nước đang phát triển dưới sự kiểm soát gắt gao về việc tuân thủ các quy định và các tiêu chuẩn ngặt nghèo về SHTT.
Cùng với sự ra đời của Hiệp định TRIPS trong khuôn khổ WTO, hoạt động SHTT thế giới thực sự chuyển sang một thời kỳ mới cả về nội dung lẫn quan hệ quốc tế. Lần đầu tiên trong hoạt động này: (i) Xuất hiện các chuẩn mực về nội dung và về thủ tục tiến hành việc bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ; (ii) Xuất hiện trạng thái cam kết có tính chất bắt buộc đối với các nước tham gia vào đời sống thương mại quốc tế phải thực hiện các nghĩa vụ về SHTT và các hậu quả pháp lý hoặc hậu quả kinh tế khi không hoàn thành các nghĩa vụ đó; (iii) Đặt các nước, nhất là các nước đang phát triển, dưới sự kiểm soát gắt gao về việc tuân thủ các quy định và các tiêu chuẩn ngặt nghèo về SHTT.
c) Cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ: một số nhân tố tiêu cực có thể gây trở ngại cho các mục tiêu phát triển
(i) Trước hết, việc áp dụng cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ một cách cứng rắn có thể sẽ tác động hạn chế khả năng tiếp cận của xã hội và người tiêu dùng đối với hàng loạt sản phẩm và dịch vụ, tạo ra sự khan hiếm hàng hoá, từ đó dẫn đến tình trạng khó tiếp cận với một số hàng hoá, sản phẩm, đặc biệt là thuốc và nhu yếu phẩm, có thể ảnh hưởng đến một số chính sách xã hội, nhất là chính sách nâng cao mức sống văn hoá và bảo đảm sức khoẻ cho nhân dân.
Thực tế cho thấy đến nay, phần lớn các sản phẩm, công nghệ mới đều được tạo ra từ các nước phát triển, hoặc thuộc quyền kiểm soát của các nước đó. Việc sử dụng, nhập khẩu các sản phẩm, công nghệ đó bị khống chế bởi độc quyền của chủ sở hữu thuộc nước phát triển.
(ii) Thách thức thứ hai là việc áp dụng cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ với tiêu chuẩn cao theo yêu cầu của các điều ước quốc tế sẽ đặt các doanh nghiệp và các nhà đầu tư của các nước đang phát triển vào một môi trường pháp lý phức tạp, bắt buộc họ phải chi phí cho việc sử dụng cơ chế này. Điều đó dường như tạo thêm một gánh nặng hoặc rào cản đối với những nỗ lực thâm nhập vào thị trường của các doanh nghiệp, đồng thời đặt doanh nghiệp vào những ràng buộc và có thể sẽ bị rơi vào các vụ việc kiện tụng, tranh chấp với những người khác.
(iii) Thách thức thứ ba là việc áp dụng cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ ở mức độ khắt khe sẽ tạo nên sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí giữa nền kinh tế lớn với nền kinh tế nhỏ. Khả năng tài chính hạn hẹp, quy mô phần lớn là nhỏ và rất nhỏ của các doanh nghiệp cũng là một hạn chế lớn cho các nước đang phát triển trong việc khai thác cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ tại các nước khác.
Các nước đang phát triển lo ngại rằng các biện pháp và thủ tục thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ có thể trở thành rào cản đối với các hoạt động thương mại hợp pháp, ảnh hưởng tới khả năng tạo ra nền tảng công nghệ bền vững và có tiềm năng phát triển, đặc biệt là ảnh hưởng tới chính sách bảo đảm y tế và dinh dưỡng cho nhân dân cũng như ảnh hưởng tới các chính sách thúc đẩy lợi ích công cộng trong các lĩnh vực sống còn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
2.3.2. Các yêu cầu tổng quát đối với hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ của nước ta
Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ của nước ta trong giai đoạn hiện nay cần đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau đây:
a) Đáp ứng các chuẩn mực quốc tế tối thiểu do Hiệp định TRIPS ấn định - đây là yêu cầu có tính chất nguyên tắc đối với hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam;
b) Thiết lập và vận hành hệ thống các biện pháp, chính sách thích hợp nhằm phát huy vai trò của cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ phục vụ cho các mục tiêu phát triển., cụ thể như các chính sách: (i) tạo nguồn nhân lực về SHTT; (ii) tuyên truyền, phổ biến về SHTT, nâng cao nhận thức và kỹ năng tham gia vào các quan hệ về SHTT; (iii) khuyến khích hỗ trợ đầu tư nhằm tạo ra, khai thác, chuyển giao tài sản trí tuệ; (iv) hỗ trợ cho các chủ thể trong nước, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào các hoạt động SHTT nhằm tạo ra sức cạnh tranh và bảo vệ họ trước nguy cơ bị thiệt thòi trước các doanh nghiệp lớn mạnh;
c) Sẵn sàng thích ứng với xu hướng phát triển có tính chất toàn cầu ngày càng sâu sắc, đồng thời hạn chế và khắc phục các yếu tố tiêu cực của cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ, thiết lập cơ chế cân bằng lợi ích thỏa đáng giữa người nắm giữ quyền sở hữu tài sản trí tuệ và xã hội; trong khuôn khổ cho phép của TRIPS, tận dụng tối đa các khả năng để bảo vệ lợi ích của xã hội và hạn chế các yếu tố tiêu cực, bảo đảm việc thực hiện các chính sách dân sinh, đặc biệt là các chính sách bảo đảm về y tế và dinh dưỡng cho nhân dân cũng như các chính sách phát triển lợi ích công cộng.
III. Các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật của Nhà nước về sở hữu tài sản trí tuệ.
3.1. Đề xuất hệ thống các chính sách của Nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ
(i) Xây dựng hệ thống các chính sách đầu tư về nguồn nhân lực nhằm bảo đảm cung cấp cán bộ và tăng cường năng lực cho hệ thống quản trị quyền SHTT tại các doanh nghiệp và hệ thống các tổ chức tư vấn - hỗ trợ về SHTT.
(ii) Xây dựng các chính sách về tài chính nhằm khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động sáng tạo tài sản trí tuệ; Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật cho các cơ quan đăng ký xác lập quyền SHTT và bảo vệ quyền SHTT; Ưu đãi về thuế cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ trong lĩnh vực SHTT; Khuyến khích việc khai thác, sử dụng các tài sản trí tuệ thông qua các giao dịch góp vốn đầu tư, chuyển nhượng, chuyển giao quyền, cổ phần hóa doanh nghiệp và các giao dịch dân sự, thương mại khác; Hỗ trợ hoạt động của các tổ chức dịch vụ đại diện SHTT và giám định SHTT, các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, đảm bảo cho các tổ chức này phát triển mạnh và đúng hướng.
3.2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về SHTT:
(i) Kiến nghị về việc sửa đổi nội dung Điều 60 của Hiến pháp 1992:
Theo quy định tại Điều 60 của Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp”. Quy định nêu trên chưa thể hiện rõ chủ trương của Nhà nước ta trong việc khuyến khích các hoạt động tạo lập, khai thác, phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ, đồng thời cũng chưa bao quát được việ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ.doc