A. Mở đầu. 2
B. Nội dung. 2
I. Sự cần thiết phải sửa đổi bổ sung pháp luật Hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa. 3
II. Một số vướng mắc và ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa. 6
1. Về độ tuổi kết hôn 6
2. Điều kiện về sự tự nguyện của các bên 6
3. Về trường hợp cấm kết hôn 7
4. Chế định tài sản giữa vợ và chồng 8
5. Chế định xác định cha, mẹ, con 9
6. Chế độ nuôi con nuôi 10
7. Chế định ly hôn 12
8. Chế định cấp dưỡng 14
9. Chế định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài 15
C. Kết luận 17
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4847 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được sửa đổi, bổ sung những điểm bất cập cho phù hợp hơn với tình hình phát triền kinh tế, xã hội của đất nước, phù hợp với thực tiễn đời sống Hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Nội dung.
Sự cần thiết phải sửa đổi bổ sung pháp luật Hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa.
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 ra đời trong thời kì đổi mới đất nước, kế thừa những nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của chế độ hôn nhân gia đình mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã góp phần xây dựng và củng cố bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình mới phù hợp với yêu cầu cách mạng. Về cơ bản, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa và phát huy những thành tựu lập pháp của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, đồng thời bổ sung những chế định quan trọng phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, cùng với xu thế thế toàn cầu hoá hiện nay, pháp luật nói chung và Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Điều này do những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới.
Thứ nhất, do pháp luật Hôn nhân và gia đình chưa hoàn thiện. Ở nhiều địa phương vẫn thường xảy ra những hành vi vi phạm pháp luật Hôn nhân và gia đình ở nhiều dạng với những mức độ khác nhau. Đời sống Hôn nhân và gia đình vẫn còn không ít những biểu hiện tiêu cực trái ngược với bản chất tốt đẹp của chế độ Hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Hiện tượng cưỡng ép, lừa dối kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ vẫn còn xảy ra trong đời sống xã hội gây ra những hậu quả xấu cho những quan hệ hôn nhân được xác lập. Hiện tượng tảo hôn vẫn xảy ra ở nhiều vùng nông thôn,vùng sâu, vùng xa, hải đảo và vùng dân tộc thiểu số. Việc tảo hôn đã dẫn đến tình trạng sức khỏe của vợ chồng, con không được đảm bảo, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ…
Thứ hai, nhiều quy định của Luật Hôn nhân và gia đình còn mang tính nguyên tắc chung, khái quát, có tính chất luật, thiếu cụ thể, khó thực hiện trên thực tiễn. Một số điều luật chưa chặt chẽ dẫn tới cách hiểu và áp dụng không thống nhất của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và dễ bị vận dụng tùy tiện, ảnh hưởng tới quyền loại của công dân, gây bất ổn đối với các quan hệ Hôn nhân và gia đình. Một số quy định của Luật chưa phù hợp với sự vận động thực tiễn của các quan hệ Hôn nhân và gia đình. Ngoài ra còn có những quy định Luật không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng nên không tránh khỏi có những quan điểm khác nhau trong quá trình thực hiện và áp dụng.
Thứ ba, trong điều kiện phát triển của cơ chế thị trường, có sự giao lưu kinh tế và hội nhập quốc tế, không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực đến các quan hệ xã hội trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình. Có những trường hợp cá nhân thực hiện việc kết hôn không phải để xây dựng gia đình hạnh phúc mà nhằm mục đích về kinh tế, trong đó tập trung nhiều ở việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Tình trạng kết hôn không đăng kí đang là hiên tượng phổ biến ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Ở các tỉnh thành phố khác cũng có tình hình này nhưng mức độ thấp hơn. Thực trạng này gây những khó khăn không nhỏ trong việc kiểm soát của Nhà nước đối với các quan hệ Hôn nhân và gia đình. Mặt khác, tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay có nhiều thay đổi, trong đó quan hệ Hôn nhân và gia đình cũng đã phát sinh nhiều vấn đề mới cần được pháp luật điều chỉnh như vấn đề kết hôn giữa những người cùng giới, giải quyết vấn đề tài sản giữa vợ và chồng…
Thứ tư, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo Luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong thực tiễn đời sống, các quan hệ Hôn nhân và gia đình đan xen, chịu ảnh hưởng qua lại của nhiều mối quan hệ khác nhau như quan hệ dân sự, quan hệ đất đai, quan hệ hành chính… Trong khi pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ đã có nhiều thay đổi, đã và đang tác động sâu sắc đến các quan hệ Hôn nhân và gia đình thì Luật hôn nhân và gia đình cần phải được hoàn thiện hơn nữa, bổ sung cho phù hợp với quy định của các đạo Luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, song các quan hệ xã hội luôn biến động và thay đổi, đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi theo. Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay cũng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mới cho phù hợp với sự thay đổi đa dạng của các quan hệ xã hội, trong đó quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật trong xu thế toàn cầu hóa là yêu cầu cấp thiết để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, và một trong những quan điểm chỉ đạo là “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về…dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội…” Trên cơ sở này cùng với các điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta phát triển có nhiều đổi mới, đòi hỏi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, phù hợp với thực tiễn đời sống Hôn nhân và gia đình trong xã hội ta hiện nay. Đó là nhu cầu khách quan của toàn xã hội, góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia đình ở nước ta.
Ngoài ra, việc sửa, đổi bổ sung nhằm hoàn hiện Luật hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa còn nhằm mục tiêu tăng cường hiệu lực quản lí của nhà nước, đề cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đối với quan hệ Hôn nhân và gia đình, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác xét xử của tòa án, bảo đảm cho Luật hôn nhân và gia đình được nghiêm chỉnh thực thi trong cuộc sống.
Một số vướng mắc và ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa.
Về độ tuổi kết hôn
Theo Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình quy định về độ tuổi kết hôn thì: “nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên…” Đây là độ tuổi tối thiểu cho phép nam nữ kết hôn. Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống xã hội của con người cũng ngày càng được nâng cao, con người có đầy đủ điều kiện để phát triển sớm hơn về thể chất. Điều này thể hiện ở chất lượng cuộc sống ngày càng cao. Bên cạnh đó là môi trường giáo dục tri thức, nhận thức cho trẻ ngày càng phát triển. Ngày nay các bạn trẻ có điều kiện để hoàn thiện nhận thức của bản thân từ nhiều kênh khác nhau. Do vậy có quan điểm cho rằng cần hạ thấp độ tuổi kết hôn khi thể lực, tâm sinh lý và sự phát triển nhận thức của con người ngày càng phát triển sớm hơn.
Mặt khác, trước đây người ta cho rằng sự phát triển tâm sinh lý của nữ thường sớm hơn nam vì vậy tuổi kết hôn của nữ ít hơn nam hai tuổi. Tuy nhiên chất lượng của xã hội ngày càng được nâng cao đã làm cho sự phát triển của nam và nữ tương đối đồng đều. Vấn đề bình đẳng giới được đặt ra thường xuyên, vậy tại sao việc quy định độ tuổi kết hôn như hiện nay lại có sự bất bình đẳng như vậy mà lại không được điều chỉnh? Thiết nghĩ Luật nên điều chỉnh cho phù hợp với các khía cạnh của đời sống xã hội và bản thân đối tượng điều chỉnh của mình.
Điều kiện về sự tự nguyện của các bên
Tự nguyện là yếu tố không thể thiếu trong điều kiện kết hôn, tuy nhiên trên thực tế có những việc kết hôn được xem là trái pháp luật, trái đạo đức xã hội nhưng lại không thuộc diện kết hôn trái pháp luật theo quy định tại Khoản 3 - Điều 15 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đó là trường hợp kết hôn “giả tạo”. Nhất là trong xã hội hiện nay, bên cạnh những tác động tích cực, những tác động tiêu cực của sự phát triển kinh tế thị trường đã làm tha hóa dần đạo đức xã hội, con người kết hôn với nhau không vì mục đích xây dựng gia đình và chung sống lâu dài mà vì những mục đích không lành mạnh khác như : để có nơi cư trú, để được nhập hộ khẩu… Đây là một thực tế mà những điều kiện kết hôn hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ quy định. Vì vậy, Luật hôn nhân và gia đình cần coi đó vi phạm về sự tự nguyện của các bên và việc kết hôn này cũng nên bị tuyên bố là vô hiệu.
Về trường hợp cấm kết hôn
Sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế dưới tác động của hội nhập đã làm cho đời sống văn hóa- xã hội từng bước thay đổi và biến hóa, chính vì vậy, tâm sinh lý của giới trẻ hiện nay cũng có những khung hướng phát triển mới. Khi thế giới cởi mở hơn, việc những người đồng giới sống chung với nhau liệu có còn thực sự là vi phạm thuần phong mỹ tục hay chỉ là hiện tượng bình thường của giới tự nhiên? Hôn nhân phải dựa trên tình cảm và sự tự nguyện, nếu cả hai người đồng giới tự nguyện kết hôn với nhau thì một bản đăng ký kết hôn liệu có đủ để ràng buộc họ. Phải chăng đây là một sự thiếu sót của Luật, dẫn đến tình trạng còn nhiều người vi phạm quy định này.
Bên cạnh đó, nếu một người chuyển đổi giới tính do khiếm khuyết về bộ phận sinh dục, về nhiễm sắc thể, sau khi xác định lại giới tính bằng phương pháp y học, đồng thời về về pháp lý họ cũng được phép đăng kí lại hộ tịch. Do đó các quyền dân sự khác liên quan đến hộ tịch, trong đó có quyền kết hôn phải được được thực hiện. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền tự nhiên của con người được sống đúng giới tính của mình, quyền của con người trong hôn nhân và gia đình, đồng thời xóa bỏ thái độ kì thị, coi thường đối với những người này.
Đồng thời để giữ gìn truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, góp phần đảm bảo sự tôn trọng quyền tự do kết hôn của con người, pháp luật nên thừa nhận người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn trong trường hợp nếu người có đủ năng lực hành vi dân sự hoàn toàn tự nguyện kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự.
Chế định tài sản giữa vợ và chồng
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu kinh doanh ngày càng gia tăng thì việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn phù hợp, tạo điều kiện cho vợ chồng có tài sản độc lập làm vốn đầu tư kinh doanh riêng, đồng thời còn góp phần bảo vệ lợi ích của gia đình. Để phân chia được, Tòa án phải xác định được đâu là tài sản chung của vợ chồng, đâu là tài sản riêng của mỗi người và đâu là tài sản của người thứ ba mà vợ chồng đang quản lý. Chế định tài sản giữa vợ và chồng cần được hoàn thiện một số quy đinh sau :
Thứ nhất, Luật nên quy định cụ thể “những tài sản khác” cần đăng ký tên cả hai vợ chồng trong đăng ký tài sản chung là những loại tài sản nào để sự áp dụng thống nhất trong thực tiễn thi hành.
Thứ hai, để hạn chế những khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp phát sinh, Luật nên quy định rõ rang các nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng.
Thứ ba, Luật cần bổ sung trách nhiệm của vợ chồng đối với tài sản chi tiêu trong gia đình dựa trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng bằng văn bản hoặc yêu cầu tòa án giải quyết theo nhu cầu thực tiễn của gia đình và khả năng kinh tế của các bên.
Thứ tư, khi xác định đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng cần xem xét nguồn gốc và giá trị của nó so với khối tài sản chung của hai vợ chồng, nếu giá trị đó khá lớn và được sử dụng với mục đích chung của gia đình thì không nên coi đó là tài sản riêng.
Thứ năm, về vấn đề hôn ước. Luật hôn nhân gia đình 2000 không đặt ra vấn đề hôn ước, tuy nhiên , nghị định số 70/2001 quy định về trường hợp xảy ra sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng , trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác” ( Khoản 2 - Điều 8 ). Nội dung của Nghị định số 70 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp quan hệ tài sản trong ly hôn và đời sống hôn nhân. Bởi vậy, nếu các bên trong quan hệ hôn nhân thỏa thuận xác lập hôn ước sẽ giảm bớt một phần việc cho các cơ quan nhà nước trong việc làm thủ tục cho việc xác nhận tài sản cho các bên. Do đó, pháp luật về Hôn nhân và gia đình của nước ta cần xem xét tới vấn đề này.
Chế định xác định cha, mẹ, con
Chế định này được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình là cơ sở nhằm xác thực các quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong quan hệ cha- mẹ - con, đồng thời là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các tranh chấp phát sinh , đòi hỏi phải có sự quy định kịp thời của pháp luật để điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Một là, với nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa con trong và ngoài giá thú, Luật nên dự liệu những cơ sở pháp lý để xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú. Pháp luật cần quy định cụ thể những căn cứ để xác định cha, mẹ con là cơ sở giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, Luật cũng nên quy định nếu đàn ông được xác định là cha của đứa trẻ thì phải chịu tri phí giám định hoặc chịu một phần chi phí với người mẹ đứa trẻ đó.
Hai là, Luật Hôn nhân và gia đình nên quy định cụ thể hậu quả pháp lý đối với việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sau : Nếu một người đàn ông là cha của con ngoài giá thú, đã được xác nhận bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng cho con, pháp luật cần bổ sung trường hợp cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi có quyết định hoặc bản án về xác định cha mẹ con có hiệu lực pháp luật.
Chế độ nuôi con nuôi
Trong thời gian qua, việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã được thực hiện tương đối triệt để, giúp cho nhiều trẻ em tìm được mái ấm gia đình, được chăm sóc và giáo dục tốt. Tuy nhiên việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trong những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế cần được hoàn thiện.
Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Các trường hợp nhận nuôi con nuôi đều phải tuân thủ mục đích của việc nuôi con nuôi. Nghị định số 69/NĐ-CP đã quy định chi tiết thi hành một số điều của luật Hôn nhân gia đình về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài,theo đó trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài là trẻ en có hoàn cảnh đặc biệt như: bị bỏ rơi, mồ côi khuyết tật, …Tuy nhiên quy định này mới chỉ được đặt ra trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, do đó cần quy định đây là điều kiện chung đối với người được nhận nuôi để hạn chế những tồn tại trong thực tế cuộc sống.
Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi
Thứ nhất, Luật không nên bắt buộc giữa những người nhận nuôi và con nuôi phải cách nhau tối thiểu từ 20 tuổi trở lên trong trường hợp vợ chồng nhận con riêng của nhau làm con nuôi.
Thứ hai, luật nên quy định không cho phép những người mắc bệnh truyền nhiễm, hiểm nghèo được nhận con nuôi, vì những người này không có đủ điều kiện về sức khỏe và , kinh tế và thời gian để chăm lo cho cuộc sống của con nuôi một cách lâu dài.
Thứ ba, về người có quyền đồng ý cho làm con nuôi. Trên thực tế có những người đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn muốn cho con mình làm con nuôi, nhưng khi đăng ký thì không thể có mặt tại UBND xã để làm thủ tục.Trước vấn đề này, Luật nên bổ sung thêm quy định về giấy thỏa thuận trong hồ sơ đăng ký việc nhận nuôi và quy định linh hoạt cho phép vắng mặt có giấy xác nhận của cơ quan quản lý nhằm bảo đảm tốt nhất lợi ích của trẻ.
Thứ tư, về thời gian thử thách trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi
Điều 20 Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi đã quy định : “Thời gian thử thách là khoảng thời gian pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó, người nhận nuôi sống chung với người được nhận làm con nuôi để cùng thích nghi và xem xét khả năng phù hợp với nhau giữa hai bên, từ đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định công nhận hay không công nhận việc nuôi con nuôi trên cơ sở đảm bảo tốt nhất của người được nhận làm con nuôi”. Pháp luật một số nước cũng đã quy định về vấn đề này như Pháp, Philipin…Tuy nhiên ở Việt Nam, Luật không có quy định về thời gian thử thách giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trước khi công nhận việc nuôi con nuôi. Do vậy, Luật hôn nhân gia đình nên ghi nhận đây là điều kiện xem xét việc nuôi con nuôi cho phù hợp với công ước Lahaye mà Việt Nam đang muốn gia nhập.
Thứ năm, về chấm dứt nuôi con nuôi. Việc chấm dứt này phải đặt lợi ích của con nuôi lên trước hết.
Luật nên mở rộng các trường hợp được chấm dứt nuôi con nuôi như : khi cha mẹ nuôi không còn điều kiện kinh tế, suy giảm sức khỏe do bệnh tật…Đồng thời cần bổ sung thêm quy định những người bị kết án mà chưa được xóa án tích về tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em cũng là căn cứ chấm dứt.
Thứ sáu, về hủy việc nuôi con nuôi trái pháp luật
Khi quan hệ nuôi con nuôi bị hủy thì coi như chưa bao giờ tồn tại quan hệ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Tuy nhiên Luật hôn nhân và gia đình 2000 chỉ quy định cụ thể các căn cứ chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi mà không có quy định nào về việc hủy bỏ nuôi con nuôi. Như vậy, pháp luật cần có quy định cụ thể về hủy việc nuôi con nuôi cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống nhằm bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.
Chế định ly hôn
Dưới tác động của hội nhập, các luồng văn hóa mới thâm nhập vào Việt Nam làm cho giới trẻ có những quan niệm mới về giá trị gia đình, về cuộc sống hôn nhân. Hiện nay, tỉ lệ ly hôn ở Việt Nam đang ngày càng tăng. Do vậy, cần có sự điều chỉnh các quy định của Pháp luật hôn nhân và gia đình cho phù hợp với thực tiễn giải quyết các tranh chấp.
Thứ nhất, tại Khoản 2 điều 85 Luật hôn nhân gia đình có quy định : “trong trường hợp người vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn”. Quy định này đã hạn chế quyền được ly hôn của người chồng. Trong khi đó nếu người vợ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi mà đứa trẻ đó không phải là con chung của hai vợ chồng thì người vợ đã vi phạm nguyên tắc nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng (Điều 18 và 21 luật hôn nhân và gia đình) khi họ đã có mâu thuẫn, tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể duy trì được nữa thì việc buộc họ phải duy trì quan hệ hôn nhân thêm một thời gian nữa cũng chỉ là việc duy trì tình thế một cách cưỡng ép.
Thứ hai, thông thường tình trạng ly thân là tiền đề của việc ly hôn. Có nhiều trường hợp tình trạng ly thân được duy trì là do ý muốn của các bên. Trong thực tiễn nhiều cặp vợ chồng sống ly thân vì nhiều nguyên nhân khác nhau như sợ ảnh hưởng uy tín của gia đình, sợ dư luận…mà chưa muốn ly hôn hoặc chưa thể ly hôn. Tuy nhiên pháp luật hiện hành không có quy định về ly thân, điều này gây khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của bên vợ chồng trong tình thế bất lợi. Như vậy, việc quy định về ly thân trong quan hệ hôn nhân và gia đình là cần thiết, không những phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của việc ly thân mà còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống, tránh tình trạng việc ly thân của các cặp vợ chồng đều tự phát và tự điều chỉnh, gây nên những hậu quả phức tạp trong quan hệ hôn nhân như hiện nay. Khi điều chỉnh về vấn đề này, Luật cần quy định rõ việc giải quyết hậu quả của tình trạng ly thân theo hướng bảo vệ quyền lợi của người vợ và các con,về quyền và trách nhiệm nuôi dưỡng , chăm sóc con cái, nếu không ở cùng nhau thì phải có trách nhiệm cấp dưỡng.
Chế định cấp dưỡng
Về cơ bản các quy định về cấp dưỡng đã mang lại nhiều hiệu quả trên thực tiễn, Bên cạnh đó, quá trình thi hành, áp dụng pháp luật về cấp dưỡng cũng bộc lộ nhiều vướng mắc, hạn chế nhất định. Để khắc phục điều này, cần phải sửa đổi , bổ sung một số vấn đề.
Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng
Điều kiện quan trọng để xác định có hay không nghĩa vụ cấp dưỡng trong các trường hợp là việc xác định rõ thế nào là “ không sống chung”. Luật hôn nhân và gia đình 2000 chưa có sự giải thích rõ rang về cụm từ này trong các quy định về cấp dưỡng. Do vậy, cần phải căn cứ vào hoàn cảnh phát sinh và tính chất của nghĩa vụ cấp dưỡng để có cách hiểu thống nhất, đầy đủ về vấn đề này.
Các trường hợp cấp dưỡng:
Thứ nhất, quy định tại khoản 6 Điều 61 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết cần phải được bổ sung hoàn thiện. Nếu sau khi ly hôn, người được cấp dưỡng chung sống như vợ chồng với người khác nhưng không đăng ký kết hôn thì khó có căn cứ để xác định người được cấp dưỡng còn trong tình trạng khó khăn, tống thiếu hay không. Vì vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể vẫn tồn tại. Thiết nghĩ nếu người được cấp dưỡng sau khi ly hôn mà chung sống như vợ chồng với người khác thì nên chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng, áp dụng theo trường hợp người được cấp dưỡng không còn khó khăn túng thiếu, đã có tài sản để tự nuôi mình.
Thứ hai, về việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng. Trong điều kiện sống ly thân, một bên vợ, chồng lâm vào tình trạng túng thiếu khó khăn mà có lý do chính đáng như bị tai nạn, mất sức lao động, ốm đau… tài sản chung của vợ chồng không còn nữa, hoặc còn nhưng không đủ để đảm bảo cuộc sống bình thường của người túng thiếu, khó khăn; trong khi đó người chồng, người vợ kia lại có tài sản riêng. Trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng cần được đặt ra.
Thứ ba, nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con
+ Khi hôn nhân đang tồn tại mà cha mẹ không có điều kiện trực tiếp nuôi con thì cha mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Điều này là cần thiết và thực tiễn thường xảy ra, tuy nhiên luật hôn nhân và gia đình không quy định về trường hợp này. Đây là thiếu sót mà luật cần phải bổ sung, tạo cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con.
+ Luật chỉ quy định việc cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con trong trường hợp ly hôn là chưa đầy đủ, đối với con đã thành niên đang học tập tại các trường đại học, cao đằng. Trung học hoặc dạy nghề lại chưa được dự liệu. Điều này là chưa thỏa đáng và không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của con.
Chế định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Ở nước ta, các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển một cách đa dạng và phức tạp cùng với xu thế xã hội hóa, hội nhập quốc tế. Việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trở thành một yêu cầu cấp thiết, quan trọng nhằm làm ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ được quyền lợi ích hợp pháp của công dân các nước có liên quan. Tuy nhiên, pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn đời sống trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết hôn có yếu tố nước ngoài
Ngoài những điều kiện quy định trong luật hôn nhân và gia đình, việc kết hôn có yếu tố nước ngoài còn phải đảm bảo những điều kiện sau:
+ Mỗi bên phải có sự hiểu biết nhất định về văn hóa ứng xử, quan hệ vợ chồng, phong tục tập quán của nhay, giao tiếp được với nhau bằng ngôn ngữ của nhau.
+ Công dân nước ngoài phải là công dân không bị truy nã hoặc đang trong giai đoạn thi hành án; có giấy chứng nhận sức khỏe ( của cả phía Việt Nam và nước ngoài); giấy chứng nhận độc thân hoặc ly hôn; lý lịch bản thân và gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương.
+ Quy định khoảng cách độ tuổi tối đa giữa các bên
+ Quy định khi kết hôn có yếu tố nước ngoài, các bên phải có mặt và đăng ký kết hôn tại Việt Nam, tránh trường hợp đăng ký ở nước ngoài rồi quay trở về Việt Nam công nhận.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
+ Sau khi việc nuôi con nuôi nước ngoài được tạo lập, cần phải có quy định cụ thể hơn điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi với con nuôi.
+ Tăng cường thẩm quyền cho Cục con nuôi quốc tế để cơ quan này có đủ thẩm quyền cần thiết thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Cơ quan trung ương có thẩm quyền quyết định việc cho, nhận con nuôi quốc tế là Bộ Tư pháp.
+ Cần có những quy định cụ thể về sự đồng ý của người mẹ trong việc cho con nuôi, quy định rõ rang về thời gian thử thách cho việc nuôi con nuôi.
Bổ sung các chế định khác
Thứ nhất, pháp luật nước ta chưa có quy định để giải quyết về vấn đề xác định cha mẹ, con có yếu tố nước ngoài. Các văn bản hướng dẫn mới chỉ quy định về thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, đối với việc giải quyết tranh chấp về xác định cha, mẹ, con vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, việc xác định cha, mẹ, con trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nên đi theo hướng áp dụng pháp luật của nước nơi thường trú của con người vào thời điểm có đơn yêu cầu để đảm bảo quyền lợi của người con.
Thứ hai, nên xây dựng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ cấp dưỡng theo hướng áp dụng pháp luật nơi thường trú của người phải cấp dưỡng vào thời điểm người yêu cầu cấp dưỡng nộp đơn yêu cầu. Quy định như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án điều tra, xem xét để xác định người phải cáo dưỡng có đủ điều kiện cấp dưỡng hay không; đồng thời đảm bảo cho việc cưỡng chế người phải cấp dưỡng thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng, đảm bảo quyền lợi của người được cấp dưỡng.
Kết luận
Với vị trí quan trọng của mình trong hệ thống pháp luật của nước ta, pháp luật về Hôn nhân và gia đình đã từng bước thay đổi và hoàn thiện cùng với quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung. Quá trình thực hiện pháp luật về Hôn nhân và gia đình trong những năm qua đã đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội trong thời kì đổi mới, góp phần xây d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa.doc