Tiểu luận Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý, đề xuất hướng giải quyết

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ 2

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2

I) MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 2

1) Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng 2

2) Vai trò của hoạt động cho vay thông qua hợp đồng tín dụng 3

II) THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG 3

1) Chủ thể của hợp đồng tín dụng 3

2) Hình thức của hợp đồng tín dụng 4

3) Nội dung của hợp đồng tín dụng 5

4) Giao kết hợp đồng tín dụng 9

5) Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng 11

6) Thực hiện hợp đồng tín dụng 12

7) Bảo đảm tiền vay 12

8) Vấn đề hiệu lực của hợp đồng 14

9) Trách nhiệm do vi phạm do vi phạm hợp đồng tín dụng 15

10) Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng 16

III) MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH CHO VAY 16

VI) MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 19

KẾT LUẬN 21

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8198 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý, đề xuất hướng giải quyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn tối đa bằng VND, với quy định:. “TCTD ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá) của các tổ chức (trừ các TCTD) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Riêng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất huy động vốn bằng VND không vượt quá 14,5%/năm”. NHNN kỳ vọng quy định này sẽ giúp thì trường tiền tệ đi vào ổn định. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, nhiều ngân hàng thương mại bắt đầu “lách” bằng cách đưa ra một loạt các hình thức khuyến mại cho khách hàng gửi tiền. Việc này đã khiến mức lãi suất huy động tăng cao, có thời điểm lên đến 17.5% đến 18%. Với lãi suất huy động như vậy thì ngân hàng sẽ buộc phải cho vay ở mức 21% – 22%/năm mới tồn tại được. Điều này đã gây áp lực cho doanh nghiệp, cho các cá nhân vay vốn. Với một mức lãi suất cao như vậy, họ sẽ rất khó khăn trong việc phát triển sản xuất, dẫn đến tình trạng nợ xấu của ngân hàng tăng nhanh. Điều này quay ngược lại ảnh hưởng trực tiếp tới các ngân hàng và chính những cá nhân, tổ chức gửi tiền vào ngân hàng. Lãi suất quá hạn: Hầu hết các TCTD vẫn thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với chính hợp đồng tín dụng đó. Mức lãi suất quá hạn không quá 150% này là do NHNN quy định dựa trên cơ sở BLDS năm 1995 giao cho NHNN quy định mức lãi suất quá hạn. Nhưng từ năm 2006 trở đi, nếu vẫn áp dụng mức lãi suất quá hạn này là không đúng pháp luật, vì BLDS năm 2005 quy định mức lãi suất quá hạn được tính “theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ” (Điều 474 khoản 5). Hai quy định này có sự chênh lệch rất đáng kể, nhất là trong thời kỳ lãi suất có sự biến động lớn. -          Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa thuận về số tiền vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn. -          Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Có một thời kỳ NHNN quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay. Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng. Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng. -          Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con  đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính) hoặc lập thành một hợp đồng phụ kèm theo hợp đồng chính. Trên thực tế các bên thường kí kết hợp đồng phụ (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh) theo thể thức luật định nhằm thể hiện rõ ý chí của mình trong việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Về lí thuyết, hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh chỉ có tính cách là hợp đồng phụ nên hiệu lực của nó phụ thuộc hoàn toàn và hiệu lực của hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng). 4) Giao kết hợp đồng tín dụng 4.1) Nguyên tắc giao kết hợp đồng + Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nguyên tắc này biểu hiện rõ ràng quyền tự do dân chủ mà nhà nước trao cho công dân. Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các chủ thể, đồng thời nâng cao ý thức của người dân trong bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế còn tồn tại nhiều trường hợp vì lợi nhuận mà các TCTD “lách luật” đồng ý cho vay đối với các doanh nghiệp không thỏa mãn các điều kiện vay vốn (Các điều kiện quy định tại điều 7 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng). + Nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Có thể nói các nguyên tắc trên đã phản ánh đúng đắn bản chất quan hệ hợp đồng trong cơ chế thị trường, trong đó là các quan hệ tự nguyện, có sự thỏa thuận về ý chí trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ xuất phát từ nhu cầu nội tại của các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của các nguyên tắc này dường như không được bảo đảm trong hoạt động vay vốn hiện nay. Với bối cảnh nền kinh tế phát triển “quá nóng”, biến động thất thường, lợi dụng tình trạng nhu cầu vốn của cá doanh nghiệp lớn, các TCTD thường cho vay vốn lãi suất cao hơn quy định đến 3 – 4%. Để hợp thức hóa phần chênh lệch này, các TCTD quy định hàng loạt các loại phí như: phí quản lý tài sản bảo đảm, phí kiểm tra tài sản, phí quản lý hạn mức.... Hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào cấm việc thu phí của các TCTD, mà chỉ có các công văn nhắc nhở của ngân hàng nhà nước trong những thời kỳ phải thực hiện đúng trần lãi suất cho vay. Dù được coi là phí nhưng đó là chi phí liên quan đến khoản vay làm gia tăng lãi suất. Nếu không vay thì không có vốn sản xuất kinh doanh, vay thì doanh nghiệp phải chịu chi phí đội lên mà không thể hạch toán để tính thuế. Như vậy, ý nghĩa ban đầu của nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng đã không còn nguyên vẹn. 4.2) Các giai đoạn của giao kết hợp đồng Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây: - Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng. Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho TCTD để xem xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng. Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là TCTD chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những TCTD đã từng đi tiên phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là thư chào mời được TCTD gửi cho tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà TCTD lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (TCTD) thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành. - Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý do TCTD thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là TCTD phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, TCTD phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với TCTD theo quy định của pháp luật. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng. - Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng:  Đây là giai đoạn cuối cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng. 5) Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng được quy định tại điều 24 và 25 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001. Cụ thể như sau: 5.1) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay - Bên ngân hàng cho vay có các quyền sau: + Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; + Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ nguồn vốn để cho vay; + Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng; + Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng; + Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật; + Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn; + Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ theo quy định; + Mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam . - Bên ngân hàng cho vay có các nghĩa vụ sau: + Giải ngân cho bên vay theo đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; + Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; + Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật. Trong số các nghĩa vụ của bên cho vay, thì nghĩa vụ giải ngân là quan trọng nhất. Nếu nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ khác của hai bên. b) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay - Bên vay vốn có các quyền sau: + Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không đúng với các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; + Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng của ngân hàng theo quy định của pháp luật. - Bên vay vốn có các nghĩa vụ sau: + Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng; + Sử dụng tiền vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và các cam kết khác với ngân hàng; + Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; + Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Trong số các nghĩa vụ của bên vay, thì nghĩa vụ trả nợ là quan trọng nhất. Nghĩa vụ này chỉ được miễn trừ nếu bên cho vay đồng ý, còn lại thì sẽ không bao giờ được miễn trừ, kể cả xảy ra tình trạng bất khả kháng. 6) Thực hiện hợp đồng tín dụng Thực hiện hợp đồng tín dụng là việc các bên chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ đã phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định như: nguyên tắc thực hiện đúng các cam kết hợp đồng; thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau; không xâm phạm lợi ích công cộng và quyền, lợi ích của chủ thể khác. 7) Bảo đảm tiền vay Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các biện pháp bảo đảm phòng ngừa rủi ro tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được khoản nợ đã cho khách hàng vay. 7.1) Bảo đảm tiền vay bằng tài sản + Biện đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay bảo hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Điều kiện của tài sản dụng để bảo đảm này là: tài sản phải thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay, bên bảo lãnh và tài sản phải được phép giao dịch. Ngoài hai điều kiện trên thì trong Nghị định 178/1999/NĐ-CP (nghị định quy định tài sản bảo đảm của TCTD, đã hết hiệu lực) tài sản bảo đảm tiền vay còn phải đáp ứng hai điều kiện nữa là tài sản không có tranh chấp và khách hàng vay phải mua bảo hiểm đối với tài sản mà pháp luật quy định. Nhưng trong thực tiễn áp dụng, các quy định này đã bộc lộ những bất cập, gây khó khăn cho các chủ thể tham gia quan hệ vay. Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã lược bỏ đi hai quy định này. Với quy định thông thoáng như vậy pháp luật đã tạo thêm cơ hội kinh doanh cho các TCTD và cơ hội vay vốn cho khách hàng, đồng thời vẫn bảo đảm được an toàn trong hoạt động ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của TCTD. + Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Tài sản hình thành từ vốn vay được hiển là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của TCTD. Tức là tài sản này sẽ được hình thành trong tương lai, theo đó tài sản này thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. 7.2) Bảo đảm không bằng tài sản + TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có tài sản bảo đảm. Theo quy định của pháp luật thì TCTd có quyền chủ động cho khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản trên cơ sở chịu mọi trách nhiệm và hậu quả pháp lý phát sinh từ thỏa thuận đó. Quy định này rất phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay, nó đã tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng cho các TCTD, tạo điều kiện cho những TCTD này phát huy tối đa khả năng nắm bắt thị trường, đồng thời thỏa mãn những nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định những hành lang pháp lý trong việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản như: khách hàng phải có dự án đầu tư, kinh doanh khả thi, có hiệu quả; khách hàng có khả năng tài chính để thực hiện trả nợ… + Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hộ cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn. Theo quy định tại điều 49 mục 6 chương III Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì các tổ chức chính trị - xã hội bằng uy tín của mình bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng thương mại để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ…Cá nhân, hộ gia đình nghèo được bảo đảm bằng tín chấp phải là thành viên của tổ chức chính trị - xã hội đứng ra bảo lãnh đó. Đây là hình thức thể hiện rõ tính chất nhân đạo của Nhà nước ta, theo đó Nhà nước bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn với mục đích giúp họ thoát nghèo, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật hiện nay chưa quy định trường hợp nếu cá nhân, hộ gia đình nghèo đi vay không có khả năng trả nợ khi đến hạn thì ngân hàng thương mại sẽ thu nợ từ đâu? Biện pháp xử lý đối với các tổ chức đứng ra tín chấp như thế nào? Ngay cả trong Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn ngày 12/4/2010 cũng chỉ đề cập đến việc xử lý rủi ro một cách rất chung chung. Do đó, trên thực tế không nhiều ngân hàng thương mại mặn mà với việc cho vay tín chấp. 8) Vấn đề hiệu lực của hợp đồng 8.1) Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 và đương nhiên chúng được áp dụng chung cho mọi hợp đồng, trong đó hợp đồng tín dụng. Các điều kiện đó là: Thứ nhất, “chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự”.             Thứ hai, “mục đích và nội dung của hợp đồng tín dụng không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Mục đích của hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo đức xã hội khi giao dịch đó được các bên xác lập nhằm vi phạm các quy tắc pháp lí đã được Nhà nước xây dựng để bảo vệ quyền lợi chung hoặc nhằm xâm hại các giá trị đạo đức đã được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi công.             Thứ ba, “có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tự do ý chí”. Một hợp đồng tín dụng được coi là không có sự đồng thuận khi sự thỏa thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự lừa dối, lường gạt học sự ép buộc, cưỡng bức trong khi giao  kết hợp đồng. Trên nguyên tắc, các khuyết tật này phải ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chí giao kết của các bên mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng vô hiệu.             Thứ tư, “hình thức của giao dịch”. Đối với hoạt động cho vay thông qua hợp đồng tín dụng, vấn đề hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lẽ loại giao dịch này cần được pháp luật quy định chặt chẽ về mặt hình thức nhằm ngăn ngừa các rủi ro pháp lí cho các bên trong quá trình xác lập và thực hiện giao dịch nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của hợp đồng tín dụng phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Xuất phát từ yêu cầu này của thực tiễn, tại Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 quy định mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. b) Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD:       Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD. Theo quy định này, việc chuyển giao tiền vay (giải ngân) là nghĩa vụ của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ này mà lại gây thiệt hại tính được thành tiền cho bên vay thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm nộp phạt vu phạm hợp đồng và chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại. c) Sự vô hiệu của HĐTD và các hậu quả pháp lý của vô hiệu:         Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này, về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).         - Nếu giao dịch được xác lập nhưng vi phạm những quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích công hay trật tự công thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó đương nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập (vô hiệu tuyệt đối) và bất kì ai quan tâm đến lợi ích chung đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu. Thời hạn để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng tín dụng này vô hiệu là không bị hạn chế (khoản 2 điều 136 BLDS 2005). Hợp đồng tín dụng bị vô hiệu tuyệt đối sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm xác lập giao dịch. Các bên không thể có lựa chọn nào khác ngoài việc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi xác lập giao dịch. Ngược lại, nếu giao dịch được xác lập nhưng chỉ vi phạm các quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích tư hay quyền lợi tư của các bên tham gia vào giao dịch thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối) và chỉ những người có quyền lợi bị xâm hại (bao gồm các bên của giao dịch hoặc người thứ ba không tham gia vào giao dịch nhưng có quyền lợi liên quan) mới có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình. Thời hạn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập (khoản 1 điều 136 BLDS 2005). Trong trường hợp hợp đồng tín dụng vi phạm những điều kiện có thể dẫn đến giao dịch bị vô hiệu tương đối, các bên có hai khả năng lựa chọn: a) Tìm cách khắc phục các nguyên nhân làm cho giao dịch vô hiệu – gọi là hoàn thiện giao dịch (ví dụ, sửa chữa các sai sót về thủ tục công chứng, thủ tục uỷ quyền, phục hồi lợi ích cho bên đối tác bị thiệt hại, thay đổi nội dung giao dịch cho phù hợp với ý chí của cả hai bên…) để làm cho giao dịch hoàn toàn có hiệu lực; hoặc b) Yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp các bên lựa chọn giải pháp hoàn thiện giao dịch thì mặc nhiên coi như đồng nghĩa với việc họ từ bỏ quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. 9) Trách nhiệm do vi phạm do vi phạm hợp đồng tín dụng       Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều kiện: -         Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD. -         Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD. -         Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý. -         Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác     Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD: -         Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật. -         Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt hại vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài phán có thẩm quyền. 10) Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài. Vì thế không phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì có tranh chấp hợp đồng mà tuy vào hoàn cảnh cụ thể để xác định đúng đắn và chính xác thời điểm phát sinh tranh chấp.     Theo pháp luật Viêt Nam, tranh chấp này sẽ được giải quyết bằng những con đường sau đây: -         Tự thương lượng giữa các bên tranh chấp: theo quy định của pháp luật, trước hết các bên có quyền tiến hành thương lượng với nhau nhằm tiến tới dung hòa lợi ích cho cả 2 bên. -         Hòa giải giữa các bên tranh chấp thông qua trung gian: giải pháp này có thể được các bên lựa chọn khi việc thương lượng không đạt kết quả. Việc quy định cơ chế này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và để tránh cho các bên những khoản chi phí không cần thiết do phải kiện trước Tòa. -         Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán: đây là giải pháp cuối cùng để phân định quyền lợi giữa các bên. Theo điều 22 BLTTDS 2004 tòa án theo thủ tục dân sự sẽ có thẩm quyền giải quyết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận điều khoản lựa chọn trọng tài thương mại khi có tranh chấp phát sinh,lúc này sẽ áp dụng theo Pháp lệnh trọng tài thương mại. III) MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH CHO VAY Một là: Một số quy định cho vay theo hợp đồng tín dụng chưa phù hợp với thực tiễn. + Thứ nhất là việc NHNN ấn định trần lãi suất huy động là chưa đủ để ổn định nền kinh tế cũng như làm hạn chế được tình trạng chạy đua lãi suất giữa các TCTD, đặc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiều hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các TCTD và những vấn đề thực tiễn pháp lý, đề xuất hướng giải quyết để giải quyết hạn chế của p.doc
Tài liệu liên quan