Tiểu luận Hoạt động của công ty tài chính PVFC trên thị trường tài chính Việt Nam

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU 2

1. Khái quát chung 4

1.1. Khái niệm 4

1.2. Đặc điểm 4

2. Phân loại công ty tài chính 5

2.1. Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company) 5

2.2. Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company) 6

2.3. Công ty tài chính kinh doanh (Business finance company) 6

3. Nghiệp vụ của công ty tài chính. 6

3.1. Nghiệp vụ tài sản nợ 6

3.2. Nghiệp vụ tài sản có 7

3.3. Nghiệp vụ trung gian 7

4. Quy định pháp lý và rủi ro cơ bản 8

4.1. Quy định pháp lý 8

4.2. Các rủi ro cơ bản 9

CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 13

1. Thành tựu: 15

2. Hạn chế: 16

3. Sự can thiệp của Nhà Nước: 17

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ TRÊN THỊ TRƯỜNG TC VIỆT NAM 18

1. Khái quát về thị trường tài chính VN 18

2. Hoạt động của tổng công ty cổ phần tài chính Dầu khí (PVFC) 18

2.1. Hoạt động huy động vốn 19

2.2. Hoạt động tín dụng 21

2.3. Hoạt động đầu tư 23

2.4. Hoạt động bảo lãnh 26

2.5. Hoạt động khác 27

CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 30

1. Đối với các công ty tài chính 30

2. Đối với Nhà nước. 31

3. Đối với Ngân hàng Nhà nước. 31

4. Đối với các Tổng công ty chủ quản của các công ty tài chính. 32

KẾT LUẬN 33

TÀI LIỆU THAM KHẢO 34

 

 

docx39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3023 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hoạt động của công ty tài chính PVFC trên thị trường tài chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệu quả và toàn diện chất lượng tín dụng trên diện rộng của mỗi tổ chức tài chính ngân hàng. Lợi ích từ việc triển khai HTXHTSBĐ tại các tổ chức tín dụng - Việc đánh giá, chấm điểm TSBĐ giúp các tổ chức tín dụng ước tính một cách chính xác và thận trọng phần giá trị có thể thu hồi được trong tương lai khi khách hàng không thể trả được khoản nợ vay, góp phần giảm thiểu những tổn thất không lường trước được phát sinh từ hoạt động tín dụng. - Hệ thống với chức năng sàng lọc TSBĐ theo các tiêu chí tối thiểu trước khi cho vay sẽ nhằm giảm thiểu được các rủi ro về mặt pháp lý do thiếu hồ sơ tài sản hoặc các rủi ro tác nghiệp phát sinh trong quá trình tiếp nhận TSBĐ của khách hàng. - Kết quả xếp hạng TSBĐ sẽ được kết hợp với kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ ra quyết định cấp tín dụng. - Việc quản lý TSBĐ sau khi cho vay giúp các tổ chức tín dụng theo dõi một cách có hệ thống và tập trung các TSBĐ đang nắm giữ để có thể có thể đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp khi có những biến động trên thị trường, giảm thiểu các rủi ro phát sinh do các biến động liên quan đến TSBĐ. - Trên cơ sở hệ thống quản lý TSBĐ sau khi cho vay, chính sách quản trị rủi ro tín dụng sẽ hoạt động có hiệu quả hơn thông qua phản ánh phù hợp mức độ tổn thất của TSBĐ; phân bổ TSBĐ phù hợp cho từng khoản vay. - Hệ thống quản lý theo dõi TSBĐ sẽ giúp các tổ chức tín dụng xây dựng được một cơ sở dữ liệu về TSBĐ cho toàn hệ thống. Cơ sở dữ liệu về TSBĐ là căn cứ để hỗ trợ các tổ chức định giá TSBĐ một cách chính xác và thống nhất trong quy trình cấp tín dụng. - Cơ sở dữ liệu của HTXHTSBĐ là căn cứ quan trong để xây dựng mô hình tính toán tỷ lệ tổn thất dự kiến (LGD) trong hoạt động tín dụng. - Kết hợp với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng để tính toán dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn cũng như các yêu cầu báo cáo khác của Ngân hàng Nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng cũng như những tác động tích cực mà TXHTSBĐ mang lại, nhiều tổ chức tín dụng trên thế giới đã triển khai hệ thống xếp hạng tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, xu hướng này vẫn mới mẻ với các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Có thể nói rủi ro là yếu tố mang tính tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội nói chung và đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các tổ chức tín dụng, nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng tổ chức liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi. Song trong phạm vi tầm tay của các tổ chức tín dụng, việc phát hiện, phòng ngừa rủi ro thông qua các công cụ quản trị rủi ro như hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, hệ thống xếp hạng tài sản bảo đảm… cũng là cách để các tổ chức tín dụng tự bảo vệ mình trước những rủi ro có thể xảy đến đặc biệt là các rủi ro trong hoạt động tín dụng. Có thể nói rằng, nếu triển khai và áp dụng tốt các công cụ quản trị rủi ro nói trên, con đường quản trị rủi ro tín dụng của ngành tài chính ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa. CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM DANH SÁCH CÔNG TY TÀI CHÍNH (Đến tháng 11 năm 2011) STT Tên Công ty Số và ngày cấp Giấy phép Trụ sở chính Vốn điều lệ 1 Cty tài chính cổ phần Dệt may Việt Nam Vietnam Textile and Garment Finance Joint stock Company ĐT: 9348153; Fax: 9348153. Số: 255/GP-NHNN ngày 16/11/2010 169-171 Phố Chùa Láng, Phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội 500 tỷ đồng 2 Cty tài chính Cao su Rubber Finance Company ĐT: 9303766; Fax: 9303236. Số: 02/GP-NHNN ngày 6/10/1998 210 Nam kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, TP HCM 1588,970707414 tỷ đồng 3 Cty TNHH một thành viên tài chính Bưu điện Post and Telecommunication Fiannce Company Limited ĐT: 5771091; Fax: 5771097. Số: 03/GP-NHNN ngày 10/10/1998 Toà nhà Ocean Park, số 1 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội 500 tỷ đồng 4 Cty TNHH một thành viên tài chính Tàu thuỷ Vietnam Shipbuilding Finance Company Limited ĐT: 8288439; Fax: 8287243. Số: 04/GP-NHNN ngày 16/3/2000 120 Hàng Trống, Hoàn Kiếm, Hà Nội 1.623 tỷ đồng 5 Tổng công ty tài chính cổ phần Dầu khí Petro Vietnam Finance Joint stock Corporation ĐT: 9426800; Fax: 9426796 (7). Số: 72/GP-NHNN ngày 17/3/2008 (Cấp lại) 20 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội 5.000 tỷ đồng 6 Cty tài chính cổ phần Handico Handico Finance Joint Stock Company ĐT: 5624055; Fax: 5624057. Số: 157/GP-NHNN ngày 6/6/2008 (Cấp lại) Tầng 3, Toà nhà Thăng Long 105 Láng Hạ, Đống Đa, Hà nội 350 tỷ đồng 7 Cty TNHH một thành viên tài chính Prudential Việt Nam (100% vốn nước ngoài) Prudential Vietnam Finance Company Limited ĐT: 9102330; Fax: 9103850. Số: 10/GP-NHNN ngày 10/10/2006 Trung tâm Thương mại Sài Gòn, 37 Tôn Đức Thắng, Q 1, TP HCM 615 tỷ đồng 8 Cty TNHH một thành viên tài chính Than - Khoáng sản Mineral and Coal Finance Company Limited. ĐT: 9410268 Fax: 9410222. Số 02/GP-NHNN ngày30/01/2007 Toà nhà Việt – Hồng 58 Trần Nhân Tông, Hai Bà Trưng, Hà Nội 1.000 tỷ đồng 9 Cty TNHH một thành viên tài chính Việt-SG (100% vốn nước ngoài) Sociéte General Viet Finance Company Limited. ĐT: 413 5489; Fax: 413 5490. Số 05/GP-NHNN ngày 8/5/2007 Tầng 2, Toà nhà Lawrence S.Ting, 801 Nguyễn Văn Linh, P. Tân Phú, Q7, TP HCM 550 tỷ đồng 10 Công ty TNHH một thành viên tài chính PPF Việt Nam (100% vốn nước ngoài) PPF Vietnam Finance Company Limited. Số 112/GP-NHNN ngày 18/4/2008 Tầng 1, Cao ốc Văn phòng 194 Golden Building, 473 Điện Biên Phủ, P 25, Q Bình Thạnh, TP HCM 500 tỷ đồng 11 Công ty tài chính cổ phần Sông Đà Song Da Finance Joint Stock Company ĐT: 62754299; Fax: 62754298 Số 137/GP-NHNN ngày 23/5/2008 Số 121 phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. 500 tỷ đồng 12 Công ty tài chính cổ phần Xi Măng Cement Finance Joint Stock Company ĐT; 62702127; Fax: 62702128 Số 142/GP-NHNN ngày 29/5/2008 28 Bà Triệu, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. 604,9 tỷ đồng 13 Công ty tài chính cổ phần Điện Lực EVN Finance Joint Stock Company. ĐT: 042229999; FAX: 042221999. Số 187/GP-NHNN ngày 07/7/2008 434 Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội 2.500 tỷ đồng 14 Công ty TNHH một thành viên tài chính Toyota Việt Nam Toyota Financial Services Vietnam Company Limited Số 208/GP-NHNN ngày 24/7/2008 Tầng 4, Golden Tower, số 6 Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, TP HCM 500 tỷ đồng 15 Công ty tài chính cổ phần Vinaconex-Viettel Vinaconex-Viettel Finance Joint Stock Company Số 304/GP-NHNN ngày 14/11/2008 Tầng 1 Toà nhà 18T2 Khu đô thị Trung Hoà-Nhân chính, phường Nhân Chính quận Thanh Xuân, Hà Nội 1.000 tỷ đồng 16 Công ty tài chính cổ phần Hoá chất Vietnam Chemical Finance Joint Stock Company Số 340/GP-NHNN ngày 29/12/2008 Toà nhà Vinachimex, số 4 Phạm Ngũ Lão, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội 300 tỷ đồng 17 Công ty TNHH một thành viên tài chính Quốc tế Việt Nam JACCS JACCS International Vietnam Finance Company Limited 90/GP-NHNN ngày 13/4/2010 Lầu 15, tòa nhà Centec, 72-74 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. 500 tỷ đồng 18 Công ty tài chính TNHH một thành viên Mirae Asset (Việt Nam). ĐT: (84-8)-39102222 Fax: (84-8)-39107222 Quyết định số 2693/QĐ-NHNN PetroVietnam Tower, 1-5 Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. 500 tỷ đồng Thành tựu: Đến nay, NHNN đã cấp phép thành lập và hoạt động cho 18 Công ty tài chính, trong đó có 6 công ty tài chính 100% vốn nước ngoài hoạt động chuyên doanh trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, 4 công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước là chủ sở hữu và 8 công ty tài chính cổ phần có các cổ đông là Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước chiếm tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần trên 25%. Vì đây là một hình thức tài chính khá mới mẻ và các công ty này thuộc các tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên các công ty này vẫn chưa phát triển quy mô như các NHTM. Nhưng với sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam cộng với ưu thế của riêng mình, hệ thống các CTTC chắn chắn sẽ nhanh chóng được mở rộng trên thị trường tài chính VN. Trong quá trình hoạt động, công ty tài chính đã thể hiện vai trò của mình trong việc hỗ trợ quản lý tài chính, thu xếp vốn trong và ngoài nước cho các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước. Đồng thời, công ty tài chính cũng là một kênh cung cấp vốn trung – dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, song hành cùng các ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho nền kinh tế, góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hạn chế: Trong thời gian qua, có vẻ như thị trường chung của các TCTD phi Ngân hàng vẫn đang trong giai đoạn “tự phát” là chính. Số lượng ít, quy mô nhỏ, cộng thêm không ít rắc rối trong thủ tục hành chính… tất cả đã ngăn cản các CTTC nhỏ lẻ vượt qua được ngân hàng trong các dịch vụ bán lẻ. Thực tế, ở thị trường nước ta, các CTTC thường vẫn “quen” làm việc với các doanh nghiệp lớn nhiều hơn. Vô hình trung, đó lại là một rào cản cho chính họ. Có một nguyên nhân khác nữa ảnh hưởng tới sự phát triển của CTTC, đó là việc phần lớn các đơn vị này đều trực thuộc các Tập đoàn kinh tế của NN, hay Tổng công ty dưới bộ. Trong những năm gần đây, hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước cũng bộc lộ nhiều bất cập: Huy động quá nhiều vốn để thực hiện đầu tư, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh trong khi năng lực quản lý, trình độ quản trị doanh nghiệp và khả năng tài chính nhìn chung còn yếu kém; đầu tư ra ngoài ngành nghề chính còn nhiều… Trên thị trường nước ta, phần lớn các CTTC đều nghiêng nhiều về nhiệm vụ quản lý và sử dụng nguồn tài chính tiền tệ thuộc “ngành dọc”. Việc mở rộng cung cấp dịch vụ tài chính cho “người ngoài” vẫn còn rất hạn chế. Theo một thống kê không chính thức mới đây, tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức phi Tài chính, tính đến hết tháng 8/2007( từ chủ yếu 9 CTTC lớn nhất nước), chỉ đạt xấp xỉ trên 3 nghìn tỉ đồng. Nhưng đáng nói là tổng dư nợ cho vay của khối tín dụng này đạt trên 10 nghìn tỉ. Khoản chênh lệch đó các CTTC lại đi vay từ Ngân hàng. Như đã nêu trên, dù các CTTC lớn hay nhỏ họ vẫn thường tỏ ra rất khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính nhỏ. Các “đơn đặt hàng” lớn không phải lúc nào cũng có, vì thế, xu hướng chung của các CTTC lại quay ngược về thị trường đầu tư tài chính. Bất động sản, chứng khoán, đầu tư tài chính dài hạn…các CTTC làm hết. Làm, nhưng không hiệu quả. Không chỉ bởi họ thua kém hẳn giới Ngân hàng về vốn, nhân lực, hay công nghệ dịch vụ, mà cái thua lớn nhất lại đáng ra phải là điểm mạnh của họ: sự năng động và khả năng quyết đoán khi có lời. Theo một thông tin mới đây của Hiệp hội Ngân hàng thì nợ xấu của các CTTC có xu hướng tăng. Điều này được giải thích rằng, đó là do cơ chế thanh toán đối với các công ty này chưa phù hợp. Đó có thể là một lí do nhưng chắc chắn không phải là duy nhất. Sự can thiệp của Nhà Nước: Ngay từ năm 2009, Chính phủ đã yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước có kế hoạch giảm tỷ lệ đầu tư ra ngoài ngành nghề chính, đặc biệt giảm tỷ lệ đầu tư vào 3 lĩnh vực “nhạy cảm” là tài chính, ngân hàng, bảo hiểm thông qua việc ban hành Nghị định 09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 về “Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác”. Thực tế, việc giảm dần tỷ lệ sở hữu của Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước trong các công ty tài chính đã diễn ra từ năm 2008 thông qua các hình thức như cổ phần hóa các công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, bán đấu giá một phần vốn đang nắm giữ hoặc dừng mua thêm cổ phiếu phát hành tăng vốn điều lệ của công ty tài chính. Theo Ngân hàng Nhà nước, tại phiên họp thường kỳ tháng 9/2011, Chính phủ đã một lần nữa khẳng định chủ trương yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước tập trung vốn đầu tư vào các ngành nghề sản xuất kinh doanh chính, không đầu tư ngoài ngành, nhất là các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, bất động sản, chứng khoán. Đối với các đơn vị trước đây đã đầu tư vào các lĩnh vực này phải sớm có kế hoạch thoái vốn, tiến tới chấm dứt kinh doanh. Do vậy, để thực hiện chủ trương của Chính phủ, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước cần sớm có kế hoạch giảm tỷ lệ đầu tư ra ngoài ngành nghề chính, đặc biệt giảm tỷ lệ đầu tư vào 3 lĩnh vực “nhạy cảm” là tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Hiện nay trên một số trang báo có thông tin NHNN “dẹp bỏ” các CTTC tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước khẳng định không có chủ trương này như một số nguồn đã đưa tin. CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ TRÊN THỊ TRƯỜNG TC VIỆT NAM Khái quát về thị trường tài chính VN Thị trường tài chính là một sản phẩm cao cấp của thị trường, nói cách khác là nền kinh tế tiền tệ. Thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, và ở mỗi giao dịch đều tạo ra dòng chảy về vốn trong nền kinh tế- như là sự lưu thông máu trong một cơ thể- một nền kinh kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại. Ở Việt Nam, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, gia nhập WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự đổi mới cả về mặt nhận thức và thực tiễn. Thị trường tài chính Việt Nam có nhiều biến động bởi sự tác động của những yếu tố trong nước và ngoài nước. Có thể thấy những thành công đáng kể của thị trường tài chính Việt Nam: Chủ động, linh hoạt, vật lộn và nhìn rõ ra nhiều góc khuất… cơ bản thoát khỏi nhiều nguy cơ tái khủng hoảng tài chính, lạm phát quá lớn và suy giảm kinh tế. Nói rõ hơn: Nền kinh tế vẫn kiểm soát được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tài chính nói riêng ở mức chấp nhận được Tốc độ tăng tín dụng đạt mức kì vọng Chỉ số chứng khoán ổn định Thị trường bất động sản khá ổn định ở mức không bị trồi, sụt quá lớn Việt Nam nằm trong các nước tăng trưởng khá Hoạt động của tổng công ty cổ phần tài chính Dầu khí (PVFC) Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam (gọi tắt là "Tổng Công ty”) tiền thân là Công ty Tài chính Dầu khí - là thành viên 100% vốn Nhà nước thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, được cổ phần hóa theo Quyết định sổ 3002/QĐ-DKVN ngày 22 tháng 8 năm 2007 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về việc “Phê duyệt phương án và chuyển Công ty Tài chính Dầu khí thành Tồng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam”. Tổng Công ty chính thức hoạt động dưới hình thức công ty cồ phần kể từ ngày 18 tháng 3 năm 2008 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103023045 ngày 17 tháng 3 năm 2008 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp và Giấy phép hoạt động số 72/2008/GP- NHNN ngày 18 tháng 3 năm 2008 cùa Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.Vốn điều lệ của Tổng Công ty là 5.000 tỳ VND. Công ty Mẹ của Tổng Công ty là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nắm giữ 78% vốn điều lệ. Tại ngày 31 tháng 12 năm 2010, Công ty mẹ - Tồng Công ty có 3 Công ty con, 3 khoản góp vốn liên doanh và 6 Công ty liên kết. Hoạt động huy động vốn Thông qua nghiệp vụ huy động vốn Công ty Tài chính mới có thể tạo được nguồn vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Vốn là yếu tố quan trọng, do vậy, việc huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau là rất cần thiết cho sự ổn định và phát triển của công ty. Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu có một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính Dầu khí: vốn chủ sở hữu càng lớn thì quy mô hoạt động của Công ty Tài chính càng lớn. Khác với các NHTM Công ty Tài chính Dầu khí với số vốn chủ sở hữu đủ lớn của mình các Công ty Tài chính Dầu khí vẫn có thể huy động vốn lớn gấp nhiều lần thông qua việc phát hành trái phiếu, tín phiếu cho các công trình, dự án đầu tư,... Vốn chủ sở hữu của các Công ty Tài chính bao gồm: Vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, Quỹ dự trữ đặc biệt đề phòng bù đắp rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị tăng lên do định giá lại tài sản cố định, các loại vốn và quỹ khác. Vốn điều lệ: Vốn điều lệ quyết định rất lớn đến quy mô hoạt động của PVFC. Doanh số của các hoạt động có liên quan như nghiệp vụ cho vay, nghiệp vụ đầu tư phụ thuộc nhiều vào số vốn điều lệ của PVFC. Theo quy định của pháp luật, PVFC chỉ được cho vay một khách hàng không quá 15% vốn chủ sở hữu, tỉ lệ đầu tư, góp vốn, mua cổ phần không quá 40% vốn chủ sở hữu, cho nên với số vốn điều lệ đủ lớn thì PVFC mới có khả năng phát triển các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và một số nghiệp vụ khác. Khi mới bắt đầu hoạt động vào cuối năm 2000, PVFC có số vốn điều lệ là 100 tỷ đồng. Số vốn điều lệ trên tổng nguồn vốn năm 2000 là 96,14%. Các tỷ lệ này giảm dần qua các năm thể hiện sự tăng trưởng mạnh về nguồn vốn. Một trong những sự phát triển nhảy vọt về nguồn vốn của Công ty tài chính Dầu khí chính là việc Công ty được Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước phê duyệt tăng vốn điều lệ là 300 tỷ vào cuối năm 2004 và tăng tiếp lên 1000 tỷ vào đầu năm 2006. Đây là một bước tiến mới giúp PVFC tăng cường được qui mô hoạt động, tạo động lực cho hoạt động kinh doanh của Công ty, giúp PVFC có chỗ đứng vững chắc trên thị trường tài chính tiền tệ. Các Quỹ và lợi nhuận để lại Cũng giống như các NHTM, hàng năm Công ty Tài chính Dầu khí phải trích lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì các quỹ, bao gồm: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích hàng năm (tính theo tỷ lệ trên lợi nhuận sau thuế); Quỹ đầu tư phát triển; Quỹ dự phòng tài chính và các Quỹ khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, phần lợi nhuận sau thuế của Công ty Tài chính Dầu khí có thể chia hoặc để lại nhằm bổ sung thêm vào vốn chủ sở hữu. Như vậy, trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, Công ty Tài chính Dầu khí có thể tăng vốn điều lệ của mình và bổ sung thường xuyên vốn điều lệ bằng lợi nhuận để lại nhằm tạo ra một vốn chủ sở hữu đủ lớn để đáp ứng được yêu cầu của các nghiệp vụ khác của Công ty như: Tham gia góp vốn liên doanh, mua cổ phần,... Vốn huy động Để đạt được kết quả kinh doanh tốt như trong thời gian vừa qua, hoạt động huy động vốn đã và đang giúp một phần quan trọng. Trong năm 2010 công ty đã huy động được 46,441 tỷ đồng. Trong đó : Các khoản tiền gửi Công ty Tài chính Dầu khí nhận tiền gửi của khách hàng dưới hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân. Hình thức gửi tiền này có kỳ hạn xác định nên mang tính ổn định cao. Hoạt động tiền gửi năm 2010 là 5,910 tỷ. Hoạt động tiền vay NHNN, các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế, phát hành kỳ phiếu và trái phiếu đạt tỷ đồng so với năm 2010 là 13,950 tỷ đồng. Hoạt động uỷ thác cho vay Công ty Tài chính có thể nhận uỷ thác đầu tư từ các cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu đầu tư dài hạn. Công ty tiếp nhận nguồn vốn uỷ thác đầu tư của tập đoàn để đầu tư vào các dự án của tập đoàn và các đơn vị thành viên. Nguồn vốn uỷ thác là nguồn vốn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu nguồn vốn của PVFC hiện nay (khoảng 57%) và đóng một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động cho vay, đầu tư của PVFC. Nguồn vốn này đã khắc phục hạn chế về hạn mức cho vay, đầu tư đối với một khách hàng. Ngoài vốn vay và vốn chủ sở hữu, đây là nguồn vốn cho vay chủ yếu của PVFC. Nguồn vốn này được thực hiện dưới nhiều hình thức: Các NHTM, các tổ chức kinh tế uỷ thác cho PVFC để cho vay uỷ thác các dự án lớn của Chính phủ và của ngành Dầu khí hoặc PetroVietnam giao số vốn uỷ thác cho PVFC để thực hiện các hợp đồng cho vay uỷ thác. Hoạt động tín dụng Thực trạng hoạt động tín dụng của công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam. Căn cứ theo Báo cáo tài chính của công ty năm 2010, hoạt động tín dụng của công ty gồm có: Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước, cho vay theo ủy thác của Chính Phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của luật các Tổ chức tín dụng và hợp đồng ủy thác. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân. Bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam được thực hiện theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước. Cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Có 2 nhóm đối tượng khách hàng của công ty, đó là: + Khách hàng là tổ chức kinh tế Là việc PVFC xem xét cho khách hàng sử dụng một số vốn với mục đích và thời gian xác định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đối tượng cho vay là các tổ chức kinh tế trong và ngoài ngành dầu khí. Điều kiện cho vay: Mục đích sử dụng vốn phù hợp với quy định về đối tượng, ngành nghề được xem xét cấp tín dụng của PVFC. Phương án sử dụng vốn khả thi. Đảm bảo được các yêu cầu bảo toàn vốn của PVFC. + Khách hàng là cá nhân: Cho vay mua nhà trả góp: PVFC cho khách hàng vay vốn mua nhà trả góp và trả dần theo các kỳ hạn cho đến khi hết thời hạn vay vốn. Hỗ trợ tín dụng mua nhà với số tiền cho vay lớn (70% giá trị căn nhà), thời hạn cho vay lên đến 20 năm. Đối tượng được cho vay là người có thu nhập ổn định, chứng minh và đảm bảo khả năng trả nợ, hoặc có tài sản thế chấp là bất động sản có sẵn hoặc hình thành từ chính tài sản hình thành từ vốn vay. Cho vay cầm cố các giấy tờ có giá: giấy tờ có gía gồm thẻ tiết kiệm, các loại số tiền gửi, hợp đồng ủy thác quản lý vốn, trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu và các chứng từ có giá khác. Hình thức này giúp người đi vay tránh được thiệt hại do việc phải rút tiền trước ngày đáo hạn của chứng từ có giá, tránh được rủi ro tỷ giá trong trường hợp phải rút tiền ngoại tệ từ chứng từ có giá và chuyển đổi ra VNĐ. Cho vay thế chấp tài sản: áp dụng với người đi vay có tài sản thế chấp là bất động sản hoặc được người thứ ba bảo lãnh bằng bất động sản. Số tiền vay có thể lên đến 70% giá trị tài sản đảm bảo. Cho vay bảo đảm bằng lương: Đối tượng là các CBCNV đang công tác tại PVFC, PVN; các Công ty con của PVFC, PVN; các Công ty có tối thiểu 10% cổ phần, vốn góp của PVFC, của PVN; các Công ty có tối thiểu 30% vốn góp của các Công ty con của PVN; các đơn vị có thoả thuận hợp tác toàn diện với PVFC. Cho vay mua ô tô trả góp: PVFC cho khách hàng cá nhân vay vốn mua ô tô trả góp và trả dần theo các kỳ hạn cho đến hết thời hạn vay vốn. Người đi vay cần có thu nhập ổn định, có khả năng trả nợ và mức vay tối đa là 70% giá trị của chiếc xe. Thu đổi ngoại tệ: nếu khách hàng cá nhân có ngoại tệ và đang có nhu cầu bán, thì PVFC nhận mua ngoại tệ tiền mặt của các khách hàng tại các bàn thu đổi ngoại tệ được cấp phép đặt tại các phòng giao dịch của PVFC. Phân tích tình hình tín dụng của PVFC Bảng 1: Cho vay 31/12/2010 31/12/2009 Cho vay các tổ chức kinh tế cá nhân trong nước 26,288,315,025,545 23,767,850,064,393 Cho vay chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá - 1,078,176,954 Cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư 6,650,722,042,013 2,507,903,509,213 Tổng cộng 32,939,037,067,558 26,276,831,750,560 Bảng 2: Phân tích chất lượng nợ cho vay 31/12/2010 31/12/2009 Nợ đủ tiêu chuẩn 30,791,587,417,788 24,675,261,419,761 Nợ cần chú ý 1,507,289,395,566 1,233,188,378,468 Nợ dưới tiêu chuẩn 206,271,502,410 17,085,265,514 Nợ nghi ngờ 139,630,262,384 90,418,196,412 Nợ có khả năng mất vốn 294,258,489,410 260,878,490,405 Tổng cộng 32,939,037,067,558 26,276,831,750,560 Bảng 3: Phân tích dư nợ theo thời gian 31/12/2010 31/12/2009 Nợ ngắn hạn 11,655,573,431,719 8,593,033,045,397 Nợ trung hạn 4,600,632,959,908 5,038,898,195,757 Nợ dài hạn 16,672,830,675,931 12,644,900,509,406  Tổng cộng 32,929,037,067,558 26,276,831,750,560 Bảng 4: Phân tích dư nợ theo đơn vị tiền tệ 31/12/2010 31/12/2009 Cho vay bằng VND 19,750,851,567,404 16,783,220,281,278 Cho vay bằng ngoại tệ 13,188,185,500,154 493,611,469,282 Tổng cộng 32,939,037,067,558 26,276,831,750,560 Theo báo cáo tài chính của PVFC, hoạt động cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước chiếm tỷ trọng chủ yếu trong hoạt động tín dụng của công ty. Cụ thể là 90.45% năm 2009 và 79.81% trong năm 2010. Dư nợ cho vay (không tính cho vay bằng vốn ủy thác của TCTD khác) tính đến ngày 31.10.2010 là 32.939.037.067.558 đồng, bằng 125.35% so với năm 2009. Tuy nhiên cùng với sự tăng lên dư nợ cho vay thì chất lượng nợ cho vay cũng ở mức rủi ro cao. Đáng báo động khi nợ dưới tiêu chuẩn tăng lên đến 12 lần từ năm 2009 đến 2010. Sau đó là nợ nghi ngờ tăng 1,5 lần và nợ có khả năng mất vốn tăng 1,1 lần. Nợ dài hạn là hình thức chiếm tỷ trọng vốn nhiều nhất, sau đó là nợ ngắn hạn. Và hình thức cho vay truyền thống bằng VND vẫn là phổ biến nhất. Hoạt động đầu tư Đầu tư dự án. Tăng tỷ trọng đầu tư dự án lên khoảng 50% trong tổng hạn mức đầu tư của PVFC, tương đương với hạn mức 600.000.000 triệu đồng. Phân bổ theo các lĩnh vực như sau: Lĩnh vực dầu khí năng lượng: 40% Lĩnh vực xây dựng và vật liệu xây dựng: 20% Lĩnh vực du lịch cao cấp: 20% Lĩnh vực khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxHoạt động của công ty tài chính PVFC trên thị trường tài chính Việt Nam.docx
Tài liệu liên quan