Tiểu luận Học thuyết chính danh của nho giáo và ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay

- Đối với Việt Nam từ chính trị Nho giáo có ảnh hưởng rất quan trọng. Thực tế xây dựng các triều đại phong kiến đã cho thấy điều đó, Nho giáo đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức đời sống - xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến một cách có nề nếp, có quy chế, có kỷ cương. Nó đã có những đóng góp tích cực trong việc khuyên bảo, dạy dỗ con người thương yêu đồng loại, quan hệ tốt với nhau. Sống yên vui, hòa thuận với nhau. Nho giáo đặt giáo dục đạo đức để thuyết phục và cảm hóa lên trên chính trị và hình phạt. Nho giáo tỏ rõ tinh thần tích cực đi vào đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận việc dân, việc nước nhằm thực hiện lý tưởng của mình ở khắp mọi nơi. Vì thế cho nên Nho giáo thể hiện khá rõ chủ nghĩa nhân đạo và nó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy xã hội học tập. Và những ý nghĩa đó đến nay vẫn còn giá trị mà chúng ta vận dụng, phát triển thành công sẽ góp phần rất lớn vào việc ổn định và phát triển đất nước trên tất cả các mặt.

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 22025 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Học thuyết chính danh của nho giáo và ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Được sự hướng dẫn của các thầy giáo trong bộ môn, em xin chọn nội dung: Học thuyết "chớnh danh" của Nho giỏo và ý nghĩa của nú trong giai đoạn hiện nay làm tiểu luận cho bộ môn: Lịch sử tư tưởng chính trị. Nội dung tiểu luận ngoài lời nói đầu, bao gồm: I. Hoàn cảnh ra đời của trường phái Nho giáo. II. Nội dung học thuyết "chính danh" của Nho giáo. III. ý nghĩa của học thuyết "chính danh" trong giai đoạn hiện nay. Nội dung I. Hoàn cảnh ra đời của trường phái Nho giáo 1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội - Trung Quốc là một quốc gia phương Đông điển hình, đó là một xã hội không có hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt thể hiện rõ nét nhất là không có tư hữu về ruộng đất. xã hội Trung Quốc cũng giống như nhiều xã hội khác ở châu á không hề giống như một xã hội nô lệ và phong kiến phương Tây. Đặc điểm của xã hội ấy là công hữu ruộng đất chiếm ưu thế, tàn dư công xã kéo dài, nền kinh tế - xã hội diễn ra với sự cống nạp từ bên dưới và phân phối từ bên trên. Nhà nước ra đời sớm do nhu cầu, đòi hỏi của lịch sử, mặc dù phân hóa giai cấp chưa chín muồi. Xã hội và quốc gia chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại được hình thành vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên. Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc cổ đại là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp thượng lưu của xã hội chiếm hữu nô lệ với những người nông dân bị phá sản, bị nô dịch và phụ thuộc. Giữa tầng lớp quý tộc gia truyền bị bần cùng hóa với những thương nhân và trọc phú tiếm quyền. Những xung đột giai cấp trong quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Quốc trở nên sâu sắc. Cuộc đấu tranh ấy để lại những dấu ấn rất nặng nề. Nó tạo tiền đề chính trị - xã hội cho cuộc đấu tranh của các trường phái chính trị khác nhau rất đa dạng và phong phú. Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Trung Quốc loạn bởi sự xâu xé lẫn nhau, tranh bá quyền với nhau, Trung Quốc bị chia thành hàng trăm tiểu quốc, rồi những nước nhỏ có tương đồng với nhau trong hoàn cảnh nào đó liên minh với nhau chống lại liên minh khác, cuối cùng dẫn đến phong trào ngũ bá (Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở). Câu hỏi lớn của lịch sử Trung Quốc thời kỳ này là làm thế nào để ổn định xã hội? Trả lời câu hỏi ấy là phong trào "bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở). Hàng trăm nhà tư tưởng khác nhau đưa ra tư tưởng của mình nhằm cắt nghĩa, tìm ra nguyên nhân xã hội loạn và từ đó đưa ra các cách chữa trị xã hội loạn ấy. Trong số hàng trăm nhà như vậy nổi bật lên có các nhà lớn sau đây: Nho giao - người đứng đầu là Khổng Tử, Lão Gia - người đứng đầu là Lão Tử, Mặc Gia - người đứng đầu là Mặc Tử, Pháp gia - người đứng đầu là Hàn Phi Tử. 2. Thân thế - sự nghiệp của Khổng Tử (551 - 479 TCN) - Khổng Tử sinh ra ở ấp Trâu, quận Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc miền Sơn Đông - phía Bắc Trung Quốc). Ông là người dòng dõi nước Tống nhưng do chiến tranh mà lưu lạc song nước Lỗ, tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni. Ngoài 50 tuổi ông mới được vua Lỗ Định Công phong chức Trung Đô Tể, 4 năm sau được phong chức Tư Không, rồi Đại Tư Khấu trông coi pháp luật. Suốt thời gian làm quan ông chăm lo chính sự cho nước Lỗ ổn định. Nước Tề lập kế để vua Lỗ mãi vui chơi, quên việc triều đình. Ông Can gián nhưng vua lỗ không nghe, bèn cùng học trò bỏ vua Lỗ mà đi. Khổng Tử nhiều lần đi sang các nước chư hầu mong muốn áp dụng học thuyết của mình vào việc trị nước, nhưng không được dùng, bản thân ông cũng không được trọng dụng. Sau 14 năm du thuyết không thành, quay về nước Lỗ khi ông đã 68 tuổi. Ông viết sách và mở trường tư dạy học, học trò theo học rất đông. Ông thọ 73 tuổi. Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội. Vì vậy nó là học thuyết chính trị. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận và hướng giải quyết những va án đề chính trị - xã hội, tư tưởng của Khổng Tử lại là tư tưởng về con người, về đạo đức. Hay nói khác học thuyết của Khổng Từ về cơ bản là học thuyết chính trị - đạo đức. Tư tưởng chính trị của Khổng Tử được thể hiện tập trung nhất trong quan niệm của ông về nhân, lễ, chính danh và mối quan hệ giữa chúng. Trong phạm vi tiểu luận này tôi chỉ xin đề cập đến học thuyết "chính danh" của Nho giáo. Tuy nhiên "chính danh" không phải là học thuyết độc lập mà nó nằm trong chỉnh thể đức trị (nhân - lễ - chính danh). Có nhân và lễ thì mới có chính danh. Và khi có "chính danh" thì chi phối cái nhân, lễ. Con người không có nhân và lễ thì không có chính danh. Vì vậy, trong quá trình phân tích học thuyết "chính danh" chúng ta không thể không đề cập đến "nhân" và "lễ". II. Nội dung học thuyết chính danh của Nho giáo 1. Nội dung của học thuyết "chính danh' - Thời đại của Khổng Tử sống là thời đại "vương đạo" suy vi, "bá đạo" nổi lên lấn át "vương đạo", chế độ tông pháp nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Đứng trước tình hình đó các Nho gia có hoài bão về một chế độ phong kiến có kỷ cương, thái bịnh và thịnh trị. Khi xét tư tưởng của Khổng Tử ta thấy có một quy tắc chính, một phát kiến của ông đó là học thuyết "chính danh". "Chính danh" là tư tưởng cơ bản của chính trị Nho giáo nhằm đưa xã hội loạn trở lại trị. Khổng Tử phản đối nhà cầm quyền dùng pháp chế, hình phạt trị dân mà chủ trương nhân trị. Sự vật tồn tại khách quan, để biểu hiện nó phải dùng ngôn ngữ, cái ngôn ngữ để biểu hiện đó là "danh". Danh đối lập với thực. Danh có nội hàm, sự vật luôn thay đổi nên nội hàm của danh cũng luôn thay đổi. Nhưng ngôn ngữ lại có tính ổn định nên danh thường lạc hậu hơn so với thực, không thay đổi kịp so với hiện thực, nhất là xã hội có biến loạn. Nguyên nhân khiến cho xã hội loạn lạc là do "danh" không hợp với "thực", xã hội đã xa rời đạo lý nhân nghĩa, kỷ cương phép nước bị đảo lộn. Muốn ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương giáo dục chính trị đạo đức là "chính danh, định phận". Thực chất là mỗi người cần phải có phẩm chất tương xứng với vị thế xã hội của anh ta và suy nghĩ, hành động tương xứng với vị thế ấy. Khổng Tử nói rằng: "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính" (không ở vị thế khác thì không mưu việc của người ở vị thế ấy). ở đây cần nhìn vấn đề "chính danh" từ sự quy định lẫn nhau giữa phẩm chất và năng lực với vị thế xã hội, nghĩa là mọi vật cần hợp với cái danh nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm bổn phận, trách nhiệm, những cá nhân mang danh ấy phải có trách nhiệm và bổn phận phù hợp với danh ấy. Khổng Tử nói: danh với thực phải hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lý luận sẽ không xuôi. Mọi việc sẽ không thành, lễ, nhạc, hình pháp sẽ không định được mà xã hội sẽ loạn. Ông Vua là người được trời giao phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, làm gương cho dân, dạy dỗ dân, để dân được sống yên ổn, làm tròn nhiệm vụ đó là danh xứng với thực, nếu không thì không xứng đáng gọi là không thể gọi là vua được. Cho nên Khổng Tử khẳng định, muốn khôi phục lại lễ chữ Tây Chu, theo ông điều trước tiên là phải khôi phục lại danh phận, địa vị của các đẳng cấp mà lễ chế đã quy định. Chính vì vậy, khi vua nước Vệ có ý mời Khổng Tử ra chống chính Tử Lộ hỏi Khổng Tử "Thầy định làm cái gì trước?" Khổng Tử đáp là "chính danh trước đã". Tử Lộ cho rằng người viển vông và không thực tế, Khổng Tử mắng Tử Lộ và nói: "Người quân tử đối với những điều mình không biết thì hãy để trống đấy. Danh không chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ nhạc không gây lại được, không gây lại được lễ nhạc thì hình phạt sẽ sai cả, hình phạt không đúng thì dân sẽ bị bó tay. Cho nên người quân tử có danh rồi tất phải nói, nói rồi tất phải làm". Theo học thuyết "chính danh" Khổng Tử đã chia xã hội thành các mối quan hệ cơ bản, trong đó mỗi mối quan hệ gọi là một luân. Theo Khổng Tử trong xã hội có 5 luân, đó là: Vua - Tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó 3 luân đều được chú trọng hơn cả và gọi đó là tam cương, các luân đã nói rõ danh phận của từng người. Nếu mỗi người thực hiện đúng danh phận đó sao cho "vua phải giữ đạo vua, bề tôi phải giữ đạo bề tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con, chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ" (quân kính, thần trung, phu từ, tử hiếu, phu xướng, phụ tùng" thì có chính danh. Mỗi người giữ đúng danh phận của mình thì mới có thể gây lại được nền chính trị của thời thiên hạ có đạo". Vì vậy, Khổng Tử khẳng định muốn làm cho xã hội ổn định thì phải "chính danh", "chính danh" từ trên xuống: quân - quân, thần - thần, phụ - phụ, tử - tử. Chứ thứ 2 là chữ chỉ "danh", với tiêu chuẩn lý tưởng, là những con người cấp tính để người ta phải tu vào đó. Chứ thứ nhất là chữ chỉ những con người cụ thể bằng xương, bằng thịt, có tên tuổi. Cho nên phải kết hợp giữa con người lý tưởng và con người cụ thể. Vì thế "quân" phải tu cho được là ông vua lý tưởng, vua phải ra vua, là ông vua minh, hiền, triết, yêu dân, yêu nước. "Quân" lý tưởng ấy là địa vị chính đáng của vạn vật trong tự nhiên "như sao bắc đẩu đứng ở vị trí của nó mà các sao khác đều hướng theo...". Còn chữ "danh" trong xã hội là danh vị, hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là cương vị và quyền hạn, còn chữ "phận" có nghĩa là "phần", là "bổn phận" tức là gồm cả quyền lợi, nghĩa vụ, mọi mặt. Trong quan hệ vua - tôi, Khổng Tử chủ trương dùng đức trị, tức là người thống trị tự lấy đạo đức của mình để cảm hóa người bị trị, làm cho họ không chống lại. Khác với hình chính, đức trị không quan tâm đến sản xuất, đến chính sách, không dùng biện pháp thưởng - phạt, mà chỉ cho rằng người thống trị chỉ cần có đạo đức là đủ, thậm chí không cần cả đẳng cấp xuất thân của họ. Ông thường nói làm chính trị mà có đức nhân là đã đứng vào vị trí của sao bắc đẩu, vị trí mà tất cả các ngôi sao khác phải hướng theo. Theo ông đối với dân lòng tin là quan trọng nhất, sau đó mới đến lương thực và những thứ khác. Vì vậy, nhà cầm quyền phải giúp cho dân giàu có, sau khi đã giàu có rồi thì nhà cầm quyền phải giáo hóa dân. Và để làm được điều đó thì nhà cầm quyền phải làm ba việc: - Đó là phân công cho người dưới quyền mình, họ làm xong phải xem xét lại. Thứ hai là phải dung thứ cho những người phạm phải lỗi nhỏ. Thứ ba là phải đề cử và dùng người hiền đức, tài cán ở đây quan niệm hiền tài của ông cũng khác: Hiền là có năng (kỹ năng, kỹ nghệ), có nghệ (lắm tài ba)song ông quý đức hơn năng nghệ. Ông nói người quân tử coi đạo là mục tiêu, nhân đức là chỗ dựa, còn nghệ chỉ là để chơi (chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ). Như vậy, ở đây ta thấy Khổng Tử chỉ rõ nhà cầm quyền để chính danh thì phải có nhân và lễ, nhà cầm quyền phải có lòng thương người, yêu người. Ông vua, kẻ sĩ lớn nhất cũng trước hết là từ chữ nhân mà trở thành ngôi sao bắc đẩu để cai trị các sao khác hướng theo. Chữ nhân ở đây không bị giới hạn ở một cá nhân nhất định mà từ trong mỗi cá nhân để đi ra nhân hóa xã hội. Người cầm quyền phải biết phát hiện và sử dụng những người tài đức, giúp họ trở thành nhân, làm cho cái đẹp, cái thiện trong mỗi người nảy nở, chớ không khơi dậy cái ác trong họ. Tựu trung lại theo Khổng Tử, nhân là nền móng, là gốc từ đó nảy sinh ra các phẩm chất đạo đức khác. Vì vậy, người nhân không thể không giữ lễ. ở trong mối quan hệ vua - tôi thì vua lấy "lễ" để sai khiến bề tôi. Còn tôi đối với vua thì phải trung có nghĩa là phải trung thành, hết lòng, thành tâm. Trong mối quan hệ cha - con, thì cha từ, con hiếu. Hiếu ở đây chủ yếu được xét trên góc độ tâm, hiếu không chỉ phụng dượng người sinh ra mình mà phải có lòng thành kính, còn nếu không chẳng khác gì nuôi chó ngựa. Hiếu không nhất nhất là theo cha mẹ, mà phận làm con thấy cha mẹ sai lầm phải can gián một cách nhẹ nhàng. Ông nói: "chỉ xét cái đáng theo mà theo mới gọi là trung, hiếu. Như vậy, ông không chủ trương ngu trung, ngu hiếu, quân có nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu. Đó là quan hệ hai chiều mà ít người để ý. - Trong quan hệ vợ chồng thì chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ, vợ phải nghe theo chồng được như thế xã hội sẽ có trật tự xã hội sẽ có trật tự kỷ cương, thái bình thịnh trị. Như vậy, khi nghiên cứu học thuyết "chính danh" Khổng Tử đưa ra ta cần tập trung vào các nội dung: - Tương xứng với địa vị cai trị, phải có phẩm chất tương ứng như nhân, nghĩa, liêm, chính... đồng thời chỉ được sử dụng "lễ" tương ứng với địa vị đang được thừa nhận, bề tôi, chư hầu, đại phu chỉ dùng "lễ" của bề tôi, chư hầu, đại phu, không được dùng "lễ" của thiên tử. Trên dưới trật tự phân minh "vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, bề tôi lấy trung để thờ vua". - Là chức trách xã hội của người cai trị và của mọi thành viên xã hội "làm vua phải cư xử cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con". Đánh giá vai trò của chính danh đối với cai trị, Khổng Tử khái quát: Nếu không chính danh tất loạn, có nghĩa là các chức trách của xã hội không chính được thì xã hội sẽ loạn. Nếu chính danh thì không cần ép buộc dân cũng theo, tất trị, nghĩa là nếu các chức trách xã hội chính danh được thì dân sẽ hưởng theo thì xã hội sẽ trị. Nhưng làm thế nào để thực hiện chính danh? ông cho rằng mọi người phải tự giác giữ lấy danh phận của mình. Từ thiên tử, chư hầu, đại phu đến "kẻ sĩ" phải tu dưỡng đạo nhân để có sự tự giác đó. Vậy muốn chính danh thì thân mình phải chính, ngôn ngữ cũng phải chính nữa, lời nói và việc làm phải hợp với nhau, không được nói nhiều mà làm ít, không được lời nói thì kính cẩn mà trong lòng thì không, hơn nữa "phải siêng năng về việc làm, thận trọng về lời nói" và nên "chậm chạp về lời nói, mau mắn về việc làm". Khổng Tử cho rằng đối với người cai trị thì "thân mình mà chính được thì không phải hạ lệnh mọi việc vẫn tiến hành, thân mình mà không chính được thì dù có hạ lệnh cũng chẳng ai theo". "Nếu thân mình mà chính được rồi thì đối với mọi việc chính sự có còn gì khó. Không thể chính được thân mình thì chính người khác thế nào? Khổng Tử khẳng định "để mang cái danh là vua, thì phải làm tròn trách nhiệm của ông vua, nếu không sẽ mất cái danh và mất luôn cả ngôi. Tóm lại, quy tắc chính danh đưa tới quy kết: ai ở địa vị nào cũng phải làm tròn trách nhiệm, và ai giữ phận nấy, không được việt vị, nghĩa là không được hưởng những quyền lợi cao hơn địa vị của mình. Khi Khổng Tử với tư cách một đại phu trí sĩ có trách nhiệm khuyến cáo vua Lỗ trừng trị một nghịch thần của một nước bạn, và ông đã theo "chính danh" nghiêm cẩn làm tròn trách nhiệm đó. Còn Hoàn Tử đã tự ban cho mình cái quyền dùng vũ "bát dật" mà chỉ thiên tử mới được dùng là trái với quy tắc chính danh. "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính" là quan điểm quan trọng đối với Khổng Tử, ai giữ phận nấy, cứ theo đúng tổ chức xã hội rất chặt chẽ, rất có tôn ti của chu công thì nước sẽ trị, thiên hạ mới gọi là hữu đạo. Hay nói cách khác, mọi người phải trọng pháp điển, có tôn ti không ai được việt vị (lễ). Người trên phải đính chính, làm tròn nhiệm vụ, yêu dân (nhân), có tín đức thì mới chính danh, đáng được dân trọng. Như vậy, muốn cho xã hội khỏi loạn Khổng Tử đã đề ra học thuyết "chính danh", mà muốn chính danh thì phải tôn trọng "lễ", và một người muốn chính danh thì phải có nhân. 2. Những giá trị tích cực và hạn chế của học thuyết "chính danh" của Nho giáo 2.1. Những giá trị tích cực - Nho giáo là một học thuyết đức trị, lễ trị, nhân trị, văn trị, khẩu hiệu của nó là thu phục lòng người. Học thuyết chính danh đề ra là bài thuốc để chữa trị xã hội loạn, nhằm mục đích thu phục lòng người. Do vậy, dù đứng ở một góc độ nào đi chăng nữa thì đây cũng chính là một học thuyết chính trị xã hội, nó đưa xã hội vào kỷ cương có lợi cho giai cấp thống trị. - Khổng Tử đưa ra học thuyết chính danh, đòi hỏi nhà cầm quyền phải có tài đức xứng với địa vị của họ, lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, trọng việc làm hơn lời nói. Dùng đạo đức của người cầm quyền để cai trị, cai trị bằng giáo dục, giáo dưỡng, giáo hóa chứ không phải là cai trị bằng gươm giáo, bằng bạo lực. Đây là giá trị phổ biến tích cực cho đến ngày nay. Bởi vì dù chính trị có hiện đại thế nào đi chăng nữa thì giáo dục, giáo dưỡng, giáo hóa vẫn rất quan trọng, kết hợp giáo dục với pháp luật chúng ta sẽ rèn dũa con người vào kỷ cương hơn. - Lời lẽ của học thuyết rất dân dã, ít tối tân, ít tư biện, ít mang tính bác học vì vậy nó dễ hiểu, dễ nhớ nên người ta dễ vận dụng, nó là món ăn tinh thần của nhiều người. "Chính danh là học thuyết mà ngoài những hạn chế thì có những yếu tố hợp lý, rất có ý nghĩa đối với xã hội hiện đại. Nếu chúng ta thực hiện nó thì sẽ đưa xã hội vào trật tự kỷ cương. - Học thuyết "chính danh" cũng đặt ra vấn đề coi trọng người hiền tài, sử dụng người hiền tài đúng với trình độ của họ. Như vậy, sẽ phát huy được hết tiềm năng của người hiền tài nhằm phục vụ cho dân, cho nước. Đây cũng là một học thuyết coi trọng sự học tập, có học mới được làm quan, coi sự học là tiêu chí để vào chính trị. Sự học ở đây là có giáo dục, được giáo dục, được giáo hóa để rèn dũa những phẩm chất đạo đức, rèn khí tiết, tu khí tiết, tu tâm. - Học thuyết chính danh còn có giá trị là khi thực hiện nó làm cho con người có trách nhiệm với bản thân hơn, có trách nhiệm với công việc của mình hơn, từ đó phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ được giao. 2.2. Những hạn chế - Học thuyết của Khổng Tử quá tuyệt đối hóa đạo đức, cho đạo đức là tất cả, từ đấy đánh giá con người quy về đạo đức hết. Ông khẳng định ông vua chỉ cần đạo đức là đủ, hay khi đánh giá hiền tài ông đưa tiêu chuẩn đạo làm mục tiêu, nhân đức là chỗ dựa còn cái tài là chỉ để chơi. - Học thuyết chính danh của Khổng Tử còn có hạn chế đó là hoài cổ, bao hàm ý bảo thủ, phải trọng danh cũ, phải hành động hợp với tiêu chuẩn cũ. Trong học thuyết chính danh của Khổng Tử vẫn trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn nay, từ đó ông đã gạt bỏ nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân đạo. - Học thuyết chính danh mà Khổng Tử đưa ra "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính", "thứ nhân bất nghị" là không cho dân có quyền bàn việc nước. Chỉ một ý đó thôi cũng cho ta thấy ở đây không có dân chủ. Mặc dù ông rất yêu dân, lo cho dân ănng không cho dân bàn việc nước vì dân không được học, không đủ tư cách bàn việc nước, cho họ làm việc nước thì sẽ loạn. - Hơn nữa, học thuyết chính danh còn thể hiện rõ sự bất bình đẳng, thang bậc trong xã hội, coi thường phụ nữ (người phụ nữ phải theo chồng thì mới đúng đạo làm vợ), coi thường lao động chân tay. Và vì ông không dám đả động đến "tông pháp" của Chu Công nên học thuyết chính danh của ông có vẻ lưng chừng, không triệt để. Và chỉ là lý thuyết suông vì đương thời danh và thực mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thực của đời sống xã hội, trật tự xã hội đã có nhiều biến đổi làm cho cái danh phận cũ được quy định theo lễ chế của nhà Chu không còn phù hợp nữa. Do đó mà không thể làm được. III. ý nghĩa của học thuyết chính danh trong giai đoạn hiện nay - Đối với Việt Nam từ chính trị Nho giáo có ảnh hưởng rất quan trọng. Thực tế xây dựng các triều đại phong kiến đã cho thấy điều đó, Nho giáo đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức đời sống - xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến một cách có nề nếp, có quy chế, có kỷ cương. Nó đã có những đóng góp tích cực trong việc khuyên bảo, dạy dỗ con người thương yêu đồng loại, quan hệ tốt với nhau. Sống yên vui, hòa thuận với nhau. Nho giáo đặt giáo dục đạo đức để thuyết phục và cảm hóa lên trên chính trị và hình phạt. Nho giáo tỏ rõ tinh thần tích cực đi vào đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận việc dân, việc nước nhằm thực hiện lý tưởng của mình ở khắp mọi nơi. Vì thế cho nên Nho giáo thể hiện khá rõ chủ nghĩa nhân đạo và nó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy xã hội học tập. Và những ý nghĩa đó đến nay vẫn còn giá trị mà chúng ta vận dụng, phát triển thành công sẽ góp phần rất lớn vào việc ổn định và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Qua 20 năm đổi mới đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời cũng còn không ít thiếu sót và vấn đề mới đặt ra đòi hỏi được giải quyết. Trong 20 năm đó, trong nước và trên thế giới có nhiều biến đổi phức tạp tạo ra cả thời cơ và thách thức mà chúng ta phải vượt qua, rút kinh nghiệm để tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Đảng ta luôn khẳng định, CNXH là mục tiêu lý tưởng của Đảng và nhân dân ta, đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, đây là một sự nghiệp lâu dài vô cùng khó khăn gian khổ, từ một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề như nước ta đi lên CNXH lại càng khó khăn, phải trải qua nhiều thời kỳ, nhiều chặng đường vừa làm, vừa rút kinh nghiệm và phải biết kế thừa những thành tựu của dân tộc và tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, kinh nghiệm của thời đại để vận dụng đúng đắn phù hợp với thực tế và quy luật khách quan. Để làm được điều đó toàn Đảng, toàn dân chúng ta phải quyết tâm thực hiện mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đặt ra. Mỗi người phải thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước, phải góp sức mình vào xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân ta hướng tới. Cụ thể trong giai đoạn hiện nay Đảng ta khẳng định phải đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật và các công cụ khác. Nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ nào cũng phải trong khuôn khổ pháp luật. Vì vậy, chúng ta phải đề ra một hệ thống pháp luật đồng bộ và đưa vào thực thi. Vấn đề đặt ra là khi chúng ta đã đề ra luật, ra chính sách thì chúng ta phải thực hiện bằng được, nếu đưa ra mà không thực hiện được thì sẽ nhờn luật và không thể trừng trị những người có hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân. Để quyết tâm thực hiện được chủ trương, chính sách, pháp luật thì đòi hỏi mỗi người dân phải có ý thức, trách nhiệm hay nói cách khác là phải "chính danh, định phận", nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều. Bên cạnh đó thì chúng ta phải kết hợp các biện pháp giáo dục đạo đức, truyền thống để nâng cao ý thức pháp luật cho người dân. Để làm được điều đó, nếu chúng ta vận dụng, phát triển học thuyết chính danh của Nho giáo ở những nhân tố hợp lý thì sẽ thu được hiệu quả rất cao. Chúng ta đang xây dựng một trật tự kỷ cương trong xã hội: Đảng ra Đảng, Nhà nước ra Nhà nước, thủ trưởng ra thủ trưởng, nhân viên ra nhân viên, không có sự lẫn lộn. Mỗi người, mỗi tổ chức phải giữ đúng danh phận, chức trách của mình. Trước hết chúng ta phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có trí tuệ xứng đáng với vai trò lãnh đạo toàn xã hội. Muốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi với làm, chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực trong xã hội. Nói cách khác, người cán bộ, đảng viên phải thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư (như Hồ Chí Minh đã vận dụng đề ra) để làm gương cho nhân dân noi theo. Đó là điều rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đối với lòng tin của nhân dân, với Đảng, với chế độ mà nguyên nhân chính là việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm và tinh thần trách nhiệm chấp hành của cán bộ và nhân dân chưa cao. Vì vậy, mỗi cán bộ, mỗi người đảng viên phải xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, hay nói cách khác là phải "chính danh, định phận" để góp phần đề ra chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tế và quyết tâm thực hiện tính nghiêm minh của pháp luật. - Trong giai đoạn hiện nay, nếu chúng ta vận dụng học thuyết "chính danh" để xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có vị trí xứng đáng với tài năng của mình, thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động và năng suất lao động xã hội sẽ ngày càng cao hơn. Thực tế hiện nay ở các cấp, các ngành vẫn còn tồn tại một đội ngũ cán bộ kiêm chức khá đông, mà theo như Khổng Tử nói "danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành...". Cho nên hiệu quả công việc không cao, tình trạng ỷ lại cho nhau vẫn còn mà cụ thể nhất là vấn đề chịu trách nhiệm trước công việc chung. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ chúng ta phải coi trọng tài năng của họ để xây dựng đội ngũ cán bộ có tính chuyên nghiệp, nghĩa là biết người, biết dùng người tạo điều kiện cho họ phát huy hết tài năng và phẩm chất của mình, phải chính quy đội ngũ cán bộ, tránh tình trạng kiêm nhiệm, kiêm chức để xảy ra tình trạng "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa". Tóm lại, học thuyết "chính danh" của Nho giáo đương thời Khổng Tử là ảo tưởng, nhưng những giá trị hợp lý của nó mà chúng ta biết vận dụng, biết chắt lọc và thực hiện nó thì sẽ đưa xã hội vào trật tự kỷ cương, làm cho người dân trung thành với chế độ với sự nghiệp hơn. Người công nhân trung thành với xí nghiệp, vui với cái vui của xí nghiệp, buồn với cái buồn của xí nghiệp, vạn bất đắc dĩ mới chuyển xí nghiệp. Vận dụng học thuyết "chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan.doc
Tài liệu liên quan