Tiểu luận Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất yếu của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

 Lịch sử xã hội loài người đã từng chứng kiến sự hình thành và thay thế của 5 hình thái kinh tế xã hội: CSNT, CHNL, PK, TBCN, CNXH. Với mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều tồn tại trong nó những mặt tốt nhất định, những thành quả mà chúng ta không thể nào phủ nhận: xã hội CSNT là chế độ xã hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài người, xã hội CHNL giai cấp thống trị bát đầu tích luỹ của cải cho xã hội, quan trọng nhất là nó đưa con người thoát khỏi thời kỳ mông muội hoang dã, xã hội PK là bước chung gian để xã hội loài người chuyể sang một nền văn minh mới nó hình thành những tiền đề tốt nhất cho sự ra đời của xã hội TBCN. Nền sản xuất TBCN không chỉ còn là sản xuất nông nghiệp can người đẫ tiếp cận được với sản xuất công nghiệp với những thành tựu KHKT nó đã tạo ra những khả năng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất nó tạo ra một khối lượng lớn của cải vật chất cho nhân loại.

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4454 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất yếu của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉ phát triển và hoàn thiện chính bản thân mình mà còn thông qua lực lượng n xuất sáng tạo ra lịch sử của chính mình-lịch sử xã hội loài người. Con người chinh phục tự nhiên, cải biến tự nhiên không phải với tư cách là những cá nhân riêng lả mà với tư cách là những thành viên của một cộng đồng xã hội. Với tư cách đó, sống trong cộng đồng xã hội, con người phải luôn có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau-điều đó đã trở thành quy luật tất yếu, khách quan mà dù muốn hay không con người vẫn phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Với cách hiểu như vậy, ta có thể xem xét quan hệ sản xuất dưới ba góc độ sau: Đó là quan hệ sở hữu của con người đối với tư liệu sản xuất. Là các quan hệ giữa con người với nhau trong tổ chức và quản lý sản xuất. Là các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất luôn gắn nó với nhau tạo thành một hệ thống mang tíng ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. Và trong cái chỉnh thể thống nhất ấy, mỗi mặt của hệ thống quan hệ sản xuất lại có những vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác địnhkhi nó tác động đến nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung. Yếu tố đầu tiên ta cần phải kể đến là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất được biểu hiện thành chế độ sở hữu. Đây là một đặc trưng cơ bản của quan hệ sản xuất cũng như phương thức sản xuất, bởi lẽ chỉ trên cơ sở, nền tảng là quan hệ sở hữu các quan hệ xã hội khác mới được phát sinh và hình thành. Quan hệ sở hữu về thực chất vốn là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất và từ đấy quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Tuy nhiên không chỉ đơn thuần có vậy, cái cách thức mà các tập doàn trao đổi hoạt động cho nhau lại quy định cách thứcquản lý xã hội trong quá trình sản xuất, và cuối cùng chính quan hệ sở hữu ấy lại là quy định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội. Với ý nghĩa như vậy, quan hệ sở hữu trở thành quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ xã hội. Đây cũng là một trong những cơ sở, nền tảng cho việc đánh giá, phân tích các chế độ xã hội khác nhau. Bên cạnh quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định, trong hệ thống các quan hệ sản xuất thì quan hệ về mặttổ chức quản lý xản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng, có khái niệm quy định trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể và từ đó có ảnh hưởng to lớn đến sự vận động của toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung. Tóm lại, cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất là nhân tố không thể thiếu để cấu thành nên một phương thức sản xuất hoàn chỉnh sản xuất hoàn chỉnh. Giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn tồn tại mối quan hệ song trùng. Chúng quy định chế ước, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Sự tác động qua lại giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất được biểu hiện thành mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội-quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong quy luật này Mac chỉ rõ về sự phù hợp và không phù hợp ( trạng thái mâu thuẫn) giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Như ta đã biết lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố cấu thành nên phương thức sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định, là yếu tố cách mạng nhất càn quan hệ sản xuất và là yếu tố tương đối ổn định. Sở dĩ một quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra một cách bình thường chính là vì trong sự sản xuất đó, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, tức quan hệ sản xuất. Đây là mặt phù hởptong nội dung quy luật, mà ở đấy quan hệ sản xuất trở thành địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển, ở trạng thái này cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng thái phù hợp như vậy, lực lượng sản xuất sẽ có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Song, sự phù hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất không tồn tại mãi mãi. Khuynh hướng chung của sự phát sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Khi công cụ lao động phát triển sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất xuất, từ đó hình thành quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất vốn dĩ là một hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, giữa chúng có sự thống nhất tương đối với nhau, nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất ( vốn là yếu tố đồng nhất, cách mạng nhất) với quan hệ sản xuất( yếu tố tương đối ổn định) nên quan hệ sản xuất quay trở lại thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển cuả lực lượng sản xuất khi nó không còn phù hợp nữa. Và đây chính là mặt không phù hợp hoặc mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Và dù phù hợp và không phù hợp thì quan hệ sản xuất vẫn luôn có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại nói trên bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế-xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến của phương thức sản xuất. Việc xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa lâtswj diệt vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Chính vì vậy C.Mac đã nhận định: “ Tôi một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xíchcủa lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.” Lịch sử cũng đã chứng minh do sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng dẫn đến sự ra đời nối tiếp của các hình thái kinh tế-xã hội. Ví dụ: Do công cụ sản xuất bằng đá thô sơ, trình độ hiểu biết hạn hẹp, để duy trì sự chống lại mọi tai hoạ của thiên nhiên con người phải lao động theo cộng động do vậy đã hình thành nên quan hệ sản xuất cọng sản nguyên thuỷ. Công cụ bằng kim loại ra đời thay thế cho công cụ đồ đá, lực lượng sản xuất phát triển nâng cao năng suất lao động, sản phẩm thặng dư xuất hiện, chế độ chiếm hữu nô lệ dựa trên quan hệ sản xuất tư hữu đầu tiên ra đời sau đó do các cưỡng bức tàn bạo trực tiếp của chủ nô với nô lệ đã đẩy đến mâu thuẫn gay gắt giữa họ, quan hệ sản xuất phong kiến thay thé quan hệ sản xuất chiến hữu nô lệ. Vào giai đoạn cuối cùng xã hội phong kiến ở các nước Tây Âu, lực lượng sản xuất đã mang yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuát phong kiến. Mặc dù hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến được thay đổi liên tục từ địa tô lao dịch đến điạ tô hiện vật, địa tô bằng điền xong quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp vẫn chứa đựng được nội dung mới của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất của tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế cho quan hệ sản xuất phong kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng sản xuất phát triển cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất hình thành lao động chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên môn hoá cao. Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân của TBCN. Giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tự nhiên TBCN, xác lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất XHCN. Như vậy, chính do sự tác động của quy luật xã hội này đã dẫn đến sự hình thành và phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất hay chính là của các hình thái kinh tế- xã hội. Nắm và hiểu được nội dung của quy luật sẽ giúp ta hiểu rõ được toàn bộ tiến trình của lịch sử nhân loại, từ đó làm cơ sở, nền tảng cho mọi cuộc cách mạng xã hội, đặc biệt là công cụ đổi mới và phát triển toàn diện nền kinh tế xã hội của đất nước. Với ý nghĩa như vậy, quy luật phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Mac đã trở thành cơ sở lí luận thực tiễn thành kim chỉ nam định hướng hành động và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt dong chảy tiến hoá của lịch sử không những trong lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi kinh tế. 3) Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Xã hội vốn là một hệ thống cấu trúc cực kỳ phức tạp bao hàm trong nó nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ với nhiều cấp độ khác nhau. Để có được một cái nhìn tổng thể về xã hội là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi chúng ta phải xem xét nơ trên nhiều phương diện, tính toán tác động của nhiều tham số và hợp phần đa dạng, vạch ra được những bộ phân chủ uyế và các mối liên hệ giữa chúng. Các nhà triết học và xã hội trước Mac đã từng có những nghiên cứu, tiếp cận xã hội với nhiều phương pháp khác nhau, song những gì mà họ có được có được chỉ là sự phản ánh đánh gía xã hội trên cơ sở bộ phận này hay bộ phận khác, nhấn mạnh một yếu tố nào đó và gắn nó với tính quy định, do đó đã không đưa ra đưọac một mô hình xã hội trong một chỉnh thể chọn vẹn của nó. Chỉ cho đến khi triết học Mac ra đời trên cơ sở là chủ nghĩa duy vật lịch sử đã xem xét xã hội một cách hệ thống, toàn diện bao gồm bốn lĩnh vực cơ bản sau: Lĩnh vực kinh tế của đời sống kinh tế xã hội, tức quan hệ sản xuất mà trong đó quan hệ kinh tế giữ vai trò là quan hệ ban đầu, cơ bản và quy định tất cả các quan hệ xã hội khác. Lĩnh vực xã hội, tức các quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội, giai cấp dân tộc trong đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối. Lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội, tức các quan hệ tổ chức và thiết chế quyền lực, hệ thóng pháp luật và tư tưởng chính trị lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội Bốn lĩnh vực cơ bản trên đã được C.Mac khái quát,cô đọng trong cấu trúc xã hội. Đó là cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, là quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thưọng tầng và tác động trở lai của kiến trúc thượng tầng đến kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng theo Mac là toàn bộ những qua hệ sản xuất hợp thành hình thái kinh tế của đời sống hinh tế xã hội. cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị và những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước và cả những quan hệ sản xuất là mầm mống của một xã hội sau. giữa các quan hệ sản xuất này có một mối liên hệ nhất định với nhau, trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo, là đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng, nó chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu quan hệ sản xuất khác, tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống kinh tế. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn ngay từ trong cơ sở hạ tầng. Lẽ dĩ nhiên, một xã hội không chỉ đặc trưng bởi những quan hệ sản xuất mà nó còn đặc trưng bởi một kiến trúc thượng tầng xây dựng trên những quan hệ sản xuát của chính nó. Trên cơ sở đó, Mac đã khái quát và phát triển nó như sau: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội với thiết chế tương ứng và những nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Đó là những quan điểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo nghệ thuật, triết học và các thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội và toàn thể quần chúng. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có những đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tàng của nó. Trái lại một bộ phận như các tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, cần có các yếu tố khác như triết học, nhgệ thuật, tôn giáo thì ở xa cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp với nó. Một đặc trưng của kiến trúc thượng tầng là sự thống trị về tư tưởng của giai cấp thống trị: Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối với giai cấp đối kháng và kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối kháng, phản ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng, biểu hiện ở xung đột về quan điểm tư tưởng và ở cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng, giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần xã hội và giả định cả tính chất đặc trưngcơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội. Như vậy, giữa cơ sở hoạt động và kiến trúc thượng tầng luôn có mối quan hệ biện chứng tới nhau, trong đó cơ sở hạ tầng luôn đóng vai trò quyết định. Một cơ sở hạ tầng như thế nào tất yếu sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng như thế ấy(giai cấp nào giữ vai trò thống trị thì về mặt kinh tế thì cũng đồng thời là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các lĩnh vực khác). Và hiển nhiên những biến đổi trong cơ sở hạ tầng dù sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác cũng sẽdẫn đến những biến đổi trong kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện theo. Như vậy sẽ hình thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng là do cơ sở hạ tâng quy định, tính quy định đó diễn ra rất phức tảptong quá trình chuyển hoá từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác. Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng không phải là một yếu tố bị động. Giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng không đơn thuần chứ không chỉ là mối quan hệ một chiều, mà trong quá trình phát triển của chúng có sự tác động qua lại với nhau. Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã cũ. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng đảm bảo sự thống trị chính trị tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về kinh tế và tư tưởng, tyig cơ sở kinh tế của nó cũng không thể đứng vững được. Như vậy, kiến trúc thượng tầng có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng khi nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng, trái lại khi tác độngngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở lại sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhấn mạnh rằng: Chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá trình phát triển lịch sửcủa cơ sở kinh tế mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy kinh tế phát triển, xã hội đi lên. Ngược lại nếu kiến trúc thượng tầng là một sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời lạc hậu thì sẽ gây tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ được cách mạng khắc phục. Quá nhấn mạnh vai trò hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng, phủ nhận tính tất yếu của kinh tế xã hội, sẽ không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa duy vật chủ quan và không thể nhận thức đúng đắn sự phát triẻn của lịch sử. ngược lại nếu tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế mà không thấy được tác dộng tích cực của kién trúc thượng tầng cũng là ( Sai lầm nghiêm trọng. Đây chính là một trong những cơ sở lý luận hết sức quan trọng trong vận dụng của công cuộc đổi mới, từ đây đòi hỏi chúng ta phải có được nhận thức đúng) tổng thể và khái quát nhất. Trong quá trình đổi mới chúng ta phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các mặt của xã hội, có như vậy việc đổi mới đạt được những kết quả tích cực nhất. ii-sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoáở việt nam. Sau thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga 1917, lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự ra đời của hàng loạt các nước XHCN, hệ thống CNXH với toàn những tính năng ưu việt của nó, đã “vượt mặt” CNTB lần đầu tiên được hình thành và rộng khắp trên toàn thế giới. Mô hình đó đã phát huy được những vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX do nhiều lý do khác nhau, chế đọ XHCN đã lâm vào một tình trạng khủng hoảng trầm trọng dẫn đến sự tan rã sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Suy về thực chất, cuộc khủng hoảng này là sự bác bỏ CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, chứ không phải là bác bỏ cnxh với tư cách là một xã hội cao hơn CNTB. Nhận thức được điều này, Việt Nam với tư cách là một nước mới giành được độc lập, dưới sự lãnh đạo sáng suôt của Đảng CSVN đã quyết định lựa chọn cho mình một con đường phát triển đúng đắn là đi theo CNXH bỏ qua chế độ CNTB trên cơ sở tiếp tục phát huy các tính năng ưư việt, đồng thời khắc phục sửa chữa những mặt hạn chế, sai xót, sai lầm mà chế độ XHCN cữ đã mắc phải. Đồng thời Đảng ta cũng nhận đã nhấn mạnh: dù có trải qua quanh co, phức tạp, lâu dài, CNXH nhất định sẽ được hoàn thiện và chiến thắng. Và để đạt được điều đó, chúng ta cần phải tiép tục đổi mới và phát triển trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng dắn hình thức kinh tế-xã hội của C.Mac vào con đường đi lên CNXH ở nước ta. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta: Lịch sử xã hội loài người đã từng chứng kiến sự hình thành và thay thế của 5 hình thái kinh tế xã hội: CSNT, CHNL, PK, TBCN, CNXH. Với mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều tồn tại trong nó những mặt tốt nhất định, những thành quả mà chúng ta không thể nào phủ nhận: xã hội CSNT là chế độ xã hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài người, xã hội CHNL giai cấp thống trị bát đầu tích luỹ của cải cho xã hội, quan trọng nhất là nó đưa con người thoát khỏi thời kỳ mông muội hoang dã, xã hội PK là bước chung gian để xã hội loài người chuyể sang một nền văn minh mới nó hình thành những tiền đề tốt nhất cho sự ra đời của xã hội TBCN. Nền sản xuất TBCN không chỉ còn là sản xuất nông nghiệp can người đẫ tiếp cận được với sản xuất công nghiệp với những thành tựu KHKT nó đã tạo ra những khả năng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất nó tạo ra một khối lượng lớn của cải vật chất cho nhân loại. Song, mặc dù các xã hội trên đã đạt được những thành quả trong lịch sử phát triển loài người nhưng những mặt trá của nó cùng bằng tất cả các xã hội trước cộng lại, những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Chỉ đến khi CNXH ra đời trên cơ sở phát huy sự kế thừa những thành quả của CNTB đồng thời khắc phục những mâu thuẫn, những hạn chế của CNTB đã thể hiện được những tính năng ưu việt riêng của nó. Đó là một xã hội mà quyền lực nằm trong tay giai cấp công nhân và nông dân lao động, một tầng lớp đông đảo của xã hội. Mọi hoạt động kinht tế, xã hội, chính trị phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội. Không còn tình trạng bóc lột, mọi người đều bình đẳng, sinh hoạt lao động dưới sựquản lý của nhà nước thông qua pháp luật thực hiên chế độ công hữu về TLSX, chế độ tập trung dân chủ công bằng xã hội. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao cơ sở hạ tâng phù hợp với hợp với kiến trúc thượng tầng. Đây là một hình thái kinhtế-xã hội ưu việt, một đỉnh cao của văn minh loài người. Mặt khác, nhân loại cũng đã từng chứng kién nhà nước, dân tộc do điều kiện lịch sử riêng của mình đã bỏ một, hai giai đoạn nào đó để tiến lên giai đoạn lịch sử cao hơn dưới hình thức này hay dưới hình thức khác tức là “ rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Vì vậy, việc Việt Nam tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là một lụa chọn đúng đắn, là tất yếu đối với cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật với quy luật phát triển khách quan trong thời đại ngày nay. Theo nghĩa từ nguyên, bỏ qua là bớt đi, không qua là để cho qua mất đi, không biết lợi dụng, là làm ngơ coi như không càn chú ý đến. ở đây, trong việc hoạch định con đường XHCN, cần phải hiểu khái niệm bỏ qua một cách biện chứng. Có thể nói “ bỏ qua” đối với Việt Nam, trong bản chất của nó là Đảng cộng sản cầm quyền, bằng cin đường với hệ phương thức và bước đi phù hợp với quá trình lịch sử tự nhiên tiến lên CNXH thông qua sự rút ngắn các giai đoạn, bước diễn tiến của nền vănminh loài người( về thời hạn, nấc thang) dựa trên nền tảng sự tăng trưởng vượt bậc của sức sản xuất xã hội. Nghĩa là Việt Nam bỏ qua, chế độ TBCN lên CNXH theo cách riêng của mình hợp với quy luật phổ biến, bao đảm phù hợpvới đặc thù của dân tộc và xu thế phát triển của thời đại, trong những bước đi cụ thể đến CNXH. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Việt Nam “bỏ qua” chế độ TBCN luôn tôn trọngquá trình lịch sử-tự nhiên, nhất là quá trình kinh tế, không thể thể nóng vội hoặc chủ quan, duy ý chý đối với quá trình này. ở đây “bỏ qua” không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn, bởi vì nếu hiểu theo cách như vậy nghĩa là chúng ta đã vô hình chung vi phạm quy luật của quá trình lịch sử-tự nhiên. “ Bỏ qua” ở đây hiểu trên phương diện quan điểm của Ph.Angghen đó là:phủ định, trong phép biện chứng, không phải chỉ có nghĩa là nói không, hoặc giả là tuyên bố rằng sự vật không tồn tại hay phá huỷ sự vật ấy một cách nào đó. Bởi vì, thực chất sự quá độ lên CNXH ở Việt Nam là mang tính chất gián tiếp chứ không phải trực tiếp vì vốn dĩ điểm xuất phát của chúng ta là thuộc đỉa nửa phong kiến, với nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp. Do vậy, nói “ tiến thẳng” có nghĩa là thực tiễn phải bao gồm các bước “quanh co”, “quá độ”, “trung gian” như Lenin đã nói và “từ từ”, “thận trọnh từng bước một”, “ vững chắc’ như Hồ Chí Minh đã từng dặn, có nghĩa là không trải qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội thống trị. Chúng ta thực hiện “sự phát triển rút ngắn”, “ngắn” ở đây chính là sự đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển, chính là tăng trưởng kinh tế. Có thể hiểu, đó là sự phát triển dứt đoạn liên tục trong liên tục, tuần tự kết hợp với nhảu vọt biện chứng. Hơn nữa, Việt nam bỏ qua TBCN nhưng không hề bỏ qua những tính quy luật chung của quá trình sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Việt Nam “bỏ qua” nhưng trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành quả tích cực của CNTB. “ Bỏ qua” chế độ CNTB nhưng chính là sử dụng CNTB một cách chủ động vàtự giác, trong điều kiện mới- điều kiện có nhà nước XHCN và với chủ thể là nhân dân lao động. ở đây, sự “bỏ qua” được biểu hiện không phải đơn thuần là sự phủ định có giữ lại những nội dung phù hợp, những vật liệu cần thiết để xây dựng CNXH đã được gián đoạn trước đó tạo nên về mặt lịch sử. Nói tóm lại, với tất cả những lý do trên, việc Việt Nam quyết định lựa chọn cho mình con đường đi lên XHCN mà không qua TBCN là một lựa chọn đúng đắn, tất yếu khách quan phù hợp với quy luật và điều kiện lịch sử xã hội của nước ta. 2. Đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa các mặt của hình thái kinh tế xã hội trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Con đường đi lên CNXH ở nươc ta là một quá trình quá độ lâu dài, phức tạp và khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải có những phương hướng, đường lối và hoạch định cụ thể đối với từng mặt, từng lĩnh vực xã hội khác nhau. Trong đó, đặc biệt cần phải đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa các mặt của hình thái kinh tế xã hội của triết học Mac-Lenin. Coi đó là phương pháp luận khoa học để nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Như ta đã biét, hình thái kinh tế xã hội có ba mặt cơ bản, đó là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Đây là ba mặt cơ bản bao quát và chi phối toàn bộ các hoạt động diễn ra trong xã hội cũng như các quá trình vận động và phát triển của lịch sử. Vì vậy, khi xem xét một xã hội dù dưới bất kỳ một hình thức nào cũng phải xoay quanh ba yếu tố cơ bản trên và đặt chúng trong một mối quan hệ thống nhất, sự tác động và liên hệ chặt chẽ với nhau. Dựa trên cơ sở đấy, Đảng và nhà nứoc ta đã vạch rõ phương hướng đường lối trong việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. đó là nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thành phần kinh tế và khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các thành phần kinh tế này không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh, nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế định. Trong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21123.doc
Tài liệu liên quan