Tiểu luận Học thuyết tư sản cổ điển

Các nhà kinh tế học tư sản cổ điển chưa phân biệt được lợi nhuận với giá trị thặng dư. A.Smith thì cho rằng lợi nhuân là một trong ba nguồn gốc cấu thành nên thu nhập xã hội. Khi nghiên cứu về nguồn gốc giá trị thặng dư, Smith coi lơi nhuận lợi tức địa tô là những khoản khấu trừ vào lao động của công nhân làm thuê. D.Ricardo không hề quan tâm đến điều đó, ông xuât phát từ cái có sẵn, hiện đang tồn tại và không biến đổi về chất, coi ngày lao động là bất biến, vấn đề chỉ là phân chia cái có sẵn đó. Ông xuất phát từ giả thuyết cho rằng giá cả lúa mì và giá cả hàng hoá công nghiệp không thay đổi do dó dẫn đến kết luận là lợi nhuận cao hay thấp là tuỳ theo tiền công thấp hay cao Đây là luận điểm nổi tiếng của ông . Về cơ bản ông đã nhận xét đúng tính đối lập trong sự vận động lên xuống của tiền công và lợi nhuận. D.Ricardo tin rằng, ông đã vạch ra được cái cơ sở kinh tế của quan hệ giữa giai cấp tư sản và vô sản. Nhưng công thức của ông chỉ đúng trong trường hợp ngày lao động là bất biến và coi lợi nhuận là giá trị thặng dư. Bởi những giả thiết đó quy luật của ông không còn đúng nữa. Về thực chất ông đã đi đến phân tích về giá trị thặng dư tương dôi.

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4979 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Học thuyết tư sản cổ điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trong những hàng hoá đó. Trong luận điểm này, W.Petty đã phân tích sự phụ thuộc giữa giá trị và năng suất lao động và rút ra rằng giá trị tỉ lệ nghịch với năng suất lao động. W.Petty nói rõ là sự khác nhau của các loại lao động ở đây không quan hệ gì cả, chỉ tuỳ thuộc vào thời gian lao động. Như vậy W.Petty có ý định đặt ra vấn đề lao động giản đơn và lao động phức tạp, nhưng ông chỉ dừng lại ở đó không phân tích luận điểm đó hơn nữa. Mặt khác ông lẫn lộn giữa giá trị và giá trị sử dụng khi đưa ra luận điểm thứ hai cho rằng “việc đánh giá tất cả mọi vật phải được quy thành hai mẫu số tự nhiên là đất đai và lao động, nghĩa là chúng ta phải nói: giá trị của một chiếc thuyền hay một cái áo là ngang với giá trị của một số đất đai là bao nhiêu đó cộng với một lượng lao động là bao nhiêu đó. Bởi vì cả hai vật đó, thuyền và áo đều do đất đai và lao động của con người tạo ra”. Ông cho rằng “lao động là bố là nhân tố tích cực của của cải, còn đất đai là mẹ của nó…”, nhưng khi phát sinh vấn đề thước đo thống nhất của giá trị thì W.Petty về thực chất muốn quy giá trị của đất thành lao động. W.Petty đưa ra luận điểm thứ ba cho rằng “suất ăn trung bình hàng ngày của một người lớn là thước đo chung của giá trị chứ không phải lao động hàng ngày của anh ta. Cái thước đo ấy đều đặn và không biến đổi như là giá trị của bạc ròng. Vì vậy mà tôi đã quy định giá trị của một cái nhà tranh ở Airơlen bằng những số lượng suất ăn hằng ngày mà người xây dựng đã chi phí để dựng lên nó”. Ở đây ông hoàn toàn không biết đến giá trị. Các luận điểm giá trị của W.Petty còn chưa dựa trên cơ sở vững chắc là lao động, luận điểm khoa học của ông còn xen kẽ với những luận điểm không khoa học. Ngay cả quan niệm giá trị khoa học của W.Petty còn in dấu vủa chủ nghĩa trọng thương vì theo ông các lao động khác có giá trị là vì nó được so sánh với lao động sản xuất ra bạc-lao động sản xuất ra tiền. Ông quy định lao động cụ thể sản xuất ra bạc thành lao động trừu tượng – khi giải quyết những vấn đề địa tô, lợi tức…ông lại đứng trên quan niệm khoa học về giá trị. Các nhà tư tưởng lớn thời cổ đại đã cảm thấy những thuộc tính khác nhau của hàng hoá nhưng mãi đến A.Smith quan điểm đó mới được xây dựng một cách vững chắc. Ông đã phân biệt rõ ràng và dứt khoát giá trị trao đổi và giá trị sử dụng của hàng hoá. Giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Một số đồ vật có thể có giá trị sự dụng rất lớn nhưng giá trị trao đổi của chúng rất ít. A.Smith đặt cho mình nhiệm vụ phải xác định cái “thước đo thực tế” của giá trị trao đổi và “giá cả thực tế” của tất cả các hàng hoá. Theo A.Smith lúc đầu sự giàu có của con người là tuỳ thuộc vào chỗ giá trị sử dụng nhiều hay ít, khi có phân công lao động thì lại phụ thuộc vào số lượng lao động mà họ có thể chi phối hay có thể mua được. Lao động chính là thước đo thực tế của giá trị trao đổi của mọi hàng hoá. Lao động là giá cả đầu tiên , là tổng số tiền mua đầu tiên đã trả cho tất cả các vật phẩm. Không phải vàng và bạc mà chính lao động là cái đầu tiên được dùng để đổi lấy tất cả của cải trên thế giới. Đó là khái niệm đúng đắn về giá trị. Thực chất A.Smith hiểu giá trị bằng số lượng lao động đã hao phí chứa đựng trong hàng hoá. A.Smith cho rằng rất khó xác định tỉ lệ giữa những lượng lao động khác nhau, một giờ lao động nặng nhọc có thể có giá trị bằng hai giờ lao động nhẹ, một số nghề đòi hỏi phải đào tạo mười năm, việc tính toán sự khó khăn và dễ dàng của lao động rất phức tạp và ông cho rằng sự cạnh tranh trên thị trường giải quyết vấn đề đó. Khí xác định thước đo bên ngoài của giá trị, ông đã đi đến một khái niệm giá trị khác: giá trị bằng số lượng lao động sống mua được trong việc trao đổi hàng hoá. Trên thực tế ông đã lấy tiền công làm thước đo các giá trị hàng hoá. Ông cho rằng đối với người công nhân thì lúc nào và ở đâu những lượng lao động như nhau bao giờ cũng có giá trị giống nhau. Trong cách hiểu thứ hai về giá trị rõ ràng A.Smith đã nhầm lẫn giữa lao động sống và lao động quá khứ, giữa số lượng lao động và giá trị lao động, A.Smith đã đem lại những khái niệm giá trị đó áp dụng vào để giải thích việc trao đổi giữa tư bản và lao động và thấy không còn đúng nưa vì vậy ông tuyên bố chỉ trong xã hội nguyên thuỷ và ít phát triển, tồn tại trước khi có sự tích luỹ tư bản và sở hữu tư nhân về ruộng đất thì hàng hoá mới được trao đổi theo chi phí đã làm ra chúng. Trong điều kiện lao động đối lập với công nhân làm thuê thì thời gian lao động không còn là thước đo nội tại điều tiết giá trị trao đổi của hàng hoá nữa. Như vậy có nghĩa là A.Smith phủ nhận quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản. Đến D.Ricardo, học thuyết giá trị của D.Ricardo mang tính khoa học và khá hoàn chỉnh. D.Ricardo đã soát lại hoạc thuyết giá trị của A.Smith, gạt bỏ những chỗ mà ông cho là sai lầm và không cần thiết, giữ lại và phát triển những nhân tố hợp lý của lý luận đó. D.Ricardo cũng phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của hàng hoá, coi sự công dụng không phải là thước đo của giá trị trao đổi, nhân tố tự nhiên chỉ mang lại cho hàng hoá một giá trị sử dụng chứ không mang lại cho hàng hoá một giá trị trao đổi. Theo ý kiến của D.Ricardo, những hàng hoá có ích sở dĩ có giá trị trao đổi là do hai nguồn: tính chất hiếm có và số lượng lao động cần thết để sản xuất ra chúng. Ông thấy rằng giá trị của một loạt hàng hoá chỉ do sự hiếm có quyết định, vì không có một lao động nào có thể làm tăng số lượng của những hàng hoá đó, và vì vậy “giá trị của chúng không thể bị hạ xuống do lượng cung tăng lên”. Vì những hàng hoá loại đó cấu thành một tỉ trọng rất nhỏ bé, nên ông cho rằng khi nghiên cứu giá trị trao đổi và những quy luật điều tiết giá cả tương đối của các hàng hoá người ta có thể chỉ lấy những hàng hoá mà số lượng có thể được tăng lên bằng lao động của con người. Khi nghiên cứu đến cơ cấu giá trị, A.Smith đã đưa ra cái giáo điều của mình là: tiền công, lợi nhuận, địa tô là nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như mọi giá trị trao đổi. D.Ricardo vạch rõ Smith đã nhầm lẫn giữa quá trình hình thành giá trị và quá trình phân phối gía trị. Việc phân phối giá trị không ảnh hưởng gì đến việc hình thành giá trị. Việc tăng tiền công không làm cho giá trị hàng hoá tăng lên mà làm cho lợi nhuận giảm xuống, tương tư như vậy đối với lợi nhuận và điạ tô. Ông cũng không đồng ý với A.Smith khi Smith không tính đến lao động quá khứ trong giá trị hàng hoá. Ông cho rằng không những chi phí lao động trực tiếp để sản xuất ra giá trị hàng hoá mà còn tính đến cả những lao động đã hao phí vào các công cụ lao động. D.Ricardo phân biệt giữa giá cả tự nhiên và giá cả thị trường, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả tự nhiên là giá cả cần thiết để thường xuyên thoả mãn số cầu, cộng với một lợi nhuận thông thường. Đây chính là giá cả sản xuất mà sau này C.Mác nói tới. D.Ricardo phân tích mối quan hệ giữa giá trị và năng suất lao động và kết luận khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị giảm xuống. Khác với A.Smith, ông cho rằng quy luật giá trị không chỉ hoạt động trong xã hội nguyên thuỷ mà còn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản nữa, quy luật cgiá trị có chức năng phân phối lại lao động, quy định tỉ lệ trao đổi và điều tiết sự hình thành giá cả. Ông phân biệt một cách rõ ràng giá trị và của cải, giá trị không phụ thuộc vào tình hình có nhiều của cải mà phụ thuộc vào tình hình sản xuất khó hay dễ, thước đo của của cải không phải là thước đo giá trị; giá trị giảm xuống trong khi của cải tăng lên. So với A.Smith, học thuyết giá trị của D.Ricardo triệt để hơn, hoàn thiện hơn và trở thành nhất quán. Nhưng cũng như Smith, D.Ricardo không nghiên cứu sâu về bản chất giá trị vịvậy ông khong nhìn thấy gính lịch sử của phạm trù giá trị mà cho nó là phạm trù vĩnh viễn, đồng nhất với các hình thái của nó. Ông xuất phát từ tiền đề thực tế có sẵn của chủ nghĩa tư bản cho nên ông không nghiên cứu những tiền đề của sản xuất hàng hoá cũng như những điều kiện tác động đến những quy luật đó. A.Smith cho rằng quy luật giá trị không hoạt động dưới chủ nghĩa tư bản là ông đã cảm thấy một cái gì đó là cho quy luật giá trị biến đổi. Trên thực tế, A.Smith đã cho thấy không thể dùng trực tiếp quy luật giá trị để giải thích việc trao đổi giữa tư bản và lao động. D.Ricardo đã có lý khi khẳng định quy luật giá trị vẫn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản. Những chỗ mà A.Smith cảm thấy có vấn đề thì ông không biết tới, cho nên ông không thể giải quyết được mâu thuẫn trong lý luận giá trị của A.Smith và không phân biệt được sản xuất hàng hoá và sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Khi nghiên cứu sâu hơn về giá trị, ông đã bứoc sang giá cả sản xuất và đã bất lực khi nhìn thấy tiền công tăng lên làm giá trị tăng lên, rồi tốc độ chu chuyển của tư bản cũng ảnh hưởng đến giá trị…Điều này đã dẫn lý luận của giá trị của ông đến chỗ bế tắc, không triệt để và mâu thuẫn. 2.2. Lý luận về tiền công. W.Petty xác định tiền công: “Pháp luật chỉ phải đảm bảo cho người công nhân số tối thiểu để sống thôi”, cái số đó phụ thuộc vào tính chất mầu mỡ tự nhiên của ruộng đất và quy môi những nhu cầu do khí hậu quy định. Trước đây phái trọng thương chỉ đơn giản kêu gọi pháp chế quy định mức tiền công rối đa, còn W.Petty nghiên cứu gía cả tự nhiên của lao động, nắm được mối liên hệ giữa tiền công và giá trị của các tư liệu sinh hoạt, hay đặt ra vấn đề quy luật kinh tế của tiền công. Cũng như tất cả các nhà kinh tế học cổ điển khi nghiên cứu về tiền công họ đều cho rằng, người công nhân bán lao động, họ chưa phân biệt được hai phạm trù lao động và sức lao động. Khác với phái trọng thương và W.Petty, A.Smith tán thành thiền côngcao vì ông cho rằng một xã hội không thể “phồn vinh và hạnh phúc nếu một bộ phận rất lớn những thành viên của nó nghèo nàn và khổ sở”. Xuất phát từ chỗ các loại thú vật đều sinh sôi nảy nở một cách tự nhiên tuỳ theo các tư liệu sinh hoạt sẵn có, A.Smith cho rằng lượng cầu về người điều tiết sự sản xuất ra họ, cũng như điều tiết sự sản xuất ra bất cứ một hàng hoá nào khác, vì vậy “tiền công cao, vốn là hậu quả của việc tăng của cải, đồng thời cũng là nguyên nhân làm tăng dân số”. Theo Smith, nguyên nhân của sự khác nhau có tính chất nghề nghiệp trong tiền công là: tính chất dễ chịu hay khó chịu của công việc; mức độ khó khăn và đắt đỏ trong việc dạy nghề; tính chất thường xuyên hay không thường xuyên của công viêc; mức độ tín nhiệm; khả năng thành đạt. Tiền công cao hơn ở những ngành mới của công nghiệp và thương nghiệp. Nó khác nhau giữa các ngành và các địa phương. Ông nhận xét rằng, thông thường, thông thường tiền công và lợi nhuận không đồng thời tăng lên, công nhân muốn lĩnh được càng nhiều càng tốt, còn tư bản trả càng ít càng hay. Ông phân biệt rõ tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế, nhu cầu về lao động và giá cả thông thường hay trung bình của lương thực quyết định mức tiên công. Nhu cầu về lao động quyết định mức tư liệu sinh hoạt, còn giá cả lương thực quyết định “giá cả bằng tiền của lao động”. Ở một chỗ khác ông coi giá trị và giá cả sản xuất là một, cho nên tiền công tăng làm cho giá cả tăng. Tiền công là nguồn gốc của giá trị trao đổi. Sự phân tích tiền công của A.Smith đã tiến những bước dài so với phái trọng nông. Ở pháo trọng nông lợi nhuận và tiền công còn nhập thành một. Ở Smith tình công và lợi nhuận được hình thành khác nhau, có nguyên tắc khác nhau và quy luật vận động khác nhau. Trong khi phân tích về tiền công ông đã coi quy luật nhân khẩu của con người cũng như quy luật nhân khẩu của loài vật. Quan điểm này về sau được các nhà kinh tế chính trị tầm thường kế thừa và phát triển. Ở tiền lương nó phản ánh tầm nhìn chung của trường phái tư sản cổ điển là coi chủ nghĩa tư bản tồn tại một cách vĩnh viễn. Cũng như những người đi trước, D.Ricardo không phân biệt hàng hoá sức lao động và lao động sống của người công nhân, mua và bán ở đây là mua bán lao động. Trong học thuyết của D.Ricardo về tiền công rõ ràng có những yếu tố khoa học, vì ông phân biệt được giá cả tự nhiên và giá cả thị trường của lao động. Ông đem những quy luật chung của thị truờng hàng hoá áp dụng vào việc mua và bán lao động. Đồng thời, những sự biến động của giá cả thị trường được coi là ngẫu nhiên và phụ thuộc vào quan hệ giữa cung và cầu về lao động. Nhưng giá cả tự nhiên của lao động lại được coi là có tính chất quy luật và tuỳ thuộc vào giá trị của các tư liệu sinh hoạt hay những chi phí để tái sản xuất ra nòi giống công nhân. Chính việc nêu sự tái sản xuất ra nòi giống công nhân là một sự tiến bộ lớn. Những người đi trước D.Ricardo đã không nhấn mạnh điều này và thậm chí còn không nói đến cái mặt rất quan trọng này của vấn đề. Ông đã cố thoát ra khỏi những khuôn khổ của cái “quy luật sắt” về tiền công. Ông thừa nhận ảnh hưởng của phong tục tập quán của nhân dân đối với mức tiền công. Ông đã khuyên một cách hoàn toàn đúng đắn rằng nên lấy số lượng sản phẩm mà công nhân nhận đựoc, tức là lấy mức tiền công thực tế, để đánh giá hoàn cảnh của công nhân. Việc định nghĩa khái niệm tiền công cao gắn liền với phần của công nhân trong sản phẩm ddax sản xuát ra. Điều đó phù hợpvới những đièu kiện của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quy luật của nền sản xuất đó. Ông đã có lý khi đặt lượng cầu về sức lao động phụ thuộc vào nhịp độ tích luỹ tư bản. D.Ricardo còn có ý kiến cho rằng việc áp dụng máy móc thường đem lại những tổn thất cho công nhân. Công lao này của D.Ricardo đã được C.Mác nêu lên. 2.3. Lý luận về lợi nhuận. Các nhà kinh tế học tư sản cổ điển chưa phân biệt được lợi nhuận với giá trị thặng dư. A.Smith thì cho rằng lợi nhuân là một trong ba nguồn gốc cấu thành nên thu nhập xã hội. Khi nghiên cứu về nguồn gốc giá trị thặng dư, Smith coi lơi nhuận lợi tức địa tô là những khoản khấu trừ vào lao động của công nhân làm thuê. D.Ricardo không hề quan tâm đến điều đó, ông xuât phát từ cái có sẵn, hiện đang tồn tại và không biến đổi về chất, coi ngày lao động là bất biến, vấn đề chỉ là phân chia cái có sẵn đó. Ông xuất phát từ giả thuyết cho rằng giá cả lúa mì và giá cả hàng hoá công nghiệp không thay đổi do dó dẫn đến kết luận là lợi nhuận cao hay thấp là tuỳ theo tiền công thấp hay cao Đây là luận điểm nổi tiếng của ông . Về cơ bản ông đã nhận xét đúng tính đối lập trong sự vận động lên xuống của tiền công và lợi nhuận. D.Ricardo tin rằng, ông đã vạch ra được cái cơ sở kinh tế của quan hệ giữa giai cấp tư sản và vô sản. Nhưng công thức của ông chỉ đúng trong trường hợp ngày lao động là bất biến và coi lợi nhuận là giá trị thặng dư. Bởi những giả thiết đó quy luật của ông không còn đúng nữa. Về thực chất ông đã đi đến phân tích về giá trị thặng dư tương dôi. C.Mác đánh giá rất đúng rằng, sự phân tích tiền công tương đối là một công lao khoa học của D.Ricardo. Trong những trường hợp cá biệt, D.Ricardo cũng phân biệt lợi nhuận và giá trị thặng dư, còn nhìn chung ông lẫn lộn giữa hai cái đó. Sự trừu tượng của ông không đủ sâu, không thể gạt lợi nhuận để nghiên cứu riêng về giá trị thặng dư được. Khi nghiên cứu về lợi nhuận, A.Smith cũng đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và cho rằng cạnh tranh đã tạo ra bình quân hoá lợi nhuận. Ông cho rằng lợi nhuận cao hơn ở nhưng nước nghèo, còn lợi nhuận thấp ở những nước giàu. Các tư bản lớn thu được lợi nhuận lớn nhưng với tỉ suất nhỏ. Ông tỏ ra lo ngại với xu hướng giảm sút của tỉ suất lợi nhuận. Theo ông chính độc quyền đã làm kìm hãm sự bình quân hoá của tỉ suất lợi nhuận. Ông còn cho rằng lợi nhuận không những khác tiền công về nguyên tắc mà lợi nhuận là một hình thái độc lập có tính chất điều tiết các thu nhập của chủ nghĩa tư bản, nó đối lập với tiền công. So với các tư tưởng kinh tế trước đó, A.Smith đã đẩy việc giải quyết vấn đề lợi nhuận tiến lên rất nhiều và ông đã nêu được cả một loạt luận điểm đúng đắn. Công lao to lớn của ông là ở chỗ ông đã nêu một ý kiến hoàn toàn xa lạ đối với phái trọng thương và phái trọng nông, tức là ý kiến nói rằng các nhà tư bản làm giàu nhờ vào lao động. Phái trọng thương giải thích lợi nhuận chỉ bằng những kinh doanh đầu cơ trong lĩnh vực lưu thông, còn phái trọng nông cho rằng lợi nhuận là một tặng vật của tự nhiên. Ngược lại A.Smith xác định rằng lợi nhuận là một khoản khấu vào snr phẩm do công nhân tạo ra, là kết quả lao động của họ. Ở đây, ông đã dựa vào cái biến thể đúng đắn trong học thuyết của ông về giá trị và đã đặt vấn đề thu nhập tư bản chủ nghĩa một cách khoa học. Ở Smith, C.Mác đã tìm ra được những mầm mống của học thuyết giá trị thặng dư, tư tưởng coi lợi nhuận là kết quả lao động của công nhân là thành tựu cao nhất của tư tưởng kinh tế tư sản trong thời kỳ phát triển khoa học của nó. Về sau tư tưởng này được D.Ricardo phát triển một cách triệt để hơn. Những cơ sở khoa học của học thuyết D.Ricardo về lợi nhuận biểu hiện ra rất rõ, ông coi lợi nhuận là kết quả lao động của công nhân, giá trị do công nhân sản xuất ra trong hàng hoá có thể vượt gấp đôi tiền công của anh ta, sự bóc lột công nhân là nguồn gốc của lợi nhuận, một khi giá trị đã do lao động sáng tạo ra thì nguồn gốc của lợi nhuận chỉ do lao động tạo ra mà thôi. Khi năng suất lao động tăng lên làm cho gía trị của lao động giảm xuống và lợi nhuận tăng lên, điều đó không ảnh hưởng chút nào tới lượng giá trị hàng hoá. D.Ricardo cũng nhận thấy tỉ suất lợi nhuận có khuynh hướng tự nhiên giảm xuống cùng với sự tiến bộ của xã hội và sự tăng lên của của cải. A.Smith cho rằng nguyên nhân làm giảm sút tỉ suất lợi nhận là do tích luỹ tư bản ngày càng tăng và kèm theo là sự cạnh tranh tăng lên giữa các tư bản. D.Ricardo vạch ra sự cạnh tranh giữa các ngành có thể san bằng lợi nhuận trong các ngành chứ không làm tỉ suất lợi nhuận giảm xuống, do giá trị các vật phẩm tiêu dùng của công nhân tăng lên làm tiền lương tăng lên và dẫn đến tỉ suất lợi nhận giảm xuống. Giá trị của các vật phẩm tiêu dùng của công nhân tăng lên là vì gía trị nông phẩm ngày càng cao do canh tác ở đất đai ngày càng kếm mày mỡ làm cho tỉ suất địa tô không ngừng tăng lên. 2.4. Lý luận về địa tô. Người đặt nền mống cho kinh tế học tư sản cổ điển W.Petty cho rằng địa tô là một khoản thặng ra do nhà kinh doanh bòn rút được ngoài số thời gian lao động tất yếu, địa tô ngang với sản phẩm thặng dư, trong đó lao động thặng dư được vật thể hoá. Địa tô còn bao gồm cả lợi nhuận, lợi nhuận chưa tách khỏi địa tô. Không chỉ có W.Petty mà phái trọng nông sau này cũng đồng nhất giá trị thặng dư với địa tô. Trong học thuyết của A.Smith, cũng như lợi nhuận, địa tô được ông coi là một khoản khấu trừ đầu tiên vào kết quả lao động của người công nhân, nhưng ở chỗ khác ông lại cho rằng địa tô là món tiền trả về việc sự dụng đát đai và lệ thuộc vào mức phù nhiều chủ khoàng đấtư liệu Bản thaan đất đai sinh ra nhiều hơn số cần thiết để nuôi dưỡng lao động, số dư ra đó là địa tô. Ông phân địa tô phụ thuộc vào độ màu mỡ và địa tô phụ thuộc vào vị trí của đất đai. Địa tô và lợi nhuận thu được trên đất đai sản xuất nông nghiệp bao giờ cũng quy định địa tô và lợi nhận trên các đất đai khác. Hình như những sản phẩm là lương thực bao giờ cũng đem lại số địa tô còn các sản phẩm khác thì tuỳ theo, thậm chí không có địa tô. Hơn nữa thức ăn không chỉ là nguồn gốc đầu tiên của địa tô mà tất cả các sản phảm khác đều nhận được địa tô do năng suất lao động trong sản xuất lương thực tăng lên. Giá cả nông phẩm ngày càng đắt lên là do việc tăng những nguyên liệu đó là có hạn và không xác định. Ông thừa nhận như phái trọng nông rằng đất đai là bộ phận tài sản lớn nhất, quan trọng nhất của một quốc gia. Mọi việc tăng của cải thật sự của xã hội, tăng số lượng lao động hữu ích vào của cải đó sẽ gián tiếp dẫn tới chỗ tăng địa tô. Ông phân biệt địa tô và tiền thuê ruộng, tiền thuê ruộng ngoài địa tô ra còn cộng thêm lợi tức. Ricardo cho rằng nguồn gốc của địa tô là một bộ phận sản phẩm của đất đai được trả cho cho địa chủ về việc sử dụng những lực lượng đầu tiên và chưa bị phá hoại của đất đai. Bản thân sự xuất hiện của địa tô gắn với việc xác lập quyền tư hữu ruộng đất. Do sân số tăng lên làm cho nhu cầu về lương thực tăng lên cho nên ngưòi ta phải sản xuất cả trên những đất đi xấu. Mà chi phí cần thết để sản xuất trong điều kiện xấu nhất quyết định lượng giá trị hàng hoá nông phẩm. Trên mảnh đất xấu nhất không có địa tô vì giá nông phẩm đắt mới có địa tô chứ không phải vì có địa tô mà giá nông phẩm đắt. Giả sử chỉ có đất đai tốt thì không có địa tô. Nếu địa chủ không nhận địa tô thì người Fecmie được hưởng chứ không làm cho giá cả nông phẩm giảm đi. Ông cho rằng cùng với việc tích luỹ tư bản thì địa tô ngày càng tăng lên, trong công nghiệp cũng như trong nông nghiệp, tự nhiên đều giúp sức cho con người; quy luật giá trị vẫn hoạt động cả khi địa tô xuất hiện. Việc thiếu khái niệm về kết cấu hữu cơ của tư bản đã ngăn cản D.Ricardo giải quyết vấn đề hình thành siêu lợi nhuận trên những đất đai xấu nhất. Ông đã tỏ ra thiếu can đảm rõ ràng, khi do sự phê phán của Manthus, ông đã bước đầu khước từ những suy luận triệt để của ông về bọn địa chủ, thừa nhận sự quan tâm xa xôi của chúng đối với sự tiến bộ của nông nghiệp. Tính chất cấp tiến của ông tỏ ra hết sức không vững vàng. Tính chất tư sản trong thế giới quan của D.Ricardo đặc biệt lõ rõ trong lời khẳng định rằng sản phẩm thặng dư dưới hình thái lợi nhuận sẽ đem lại một hiệu quả kinh tế lớn hơn là dưới hình thái địa tô. Ở đây, ông đã thể hiện những nguyện vọng thầm kín của giai cấp tư sản Anh muốn chiếm tất cả những nguồn gốc thu nhập tư bản chủ nghĩa, mơ tưởng đến việc chiếm đoạt toàn bộ khối lượng giá trị thặng dư. 2.5. Lý luận về tiền tệ. Lý luận về tiền tệ đã được nhiều học giả tư sản cổ điển nói đến, nhưng người nói đầy đủ hơn cả là D.Ricardo, ông là người rất sành về tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Thực tiễn hoạt động giao dịch của ông và những sự nghiên cứu lý luận của ông đã trực tiếp gẵn liền với nhau, làm phong phú cho nhau. Chúng ta có đủ cơ sở để khẳng định rằng về vấn đề lưu thông tiền tệ, D.Ricardo đã đưa ra nhiềuluận điểm đúng đắn. Trong tất cả những tác phẩm của ông đều nhấn mạnh rằng vàng và bạc là hàng hóa, cógía trị riêng của chúng, giá trị này do những chi phí lao độngdùng để khai thác và vận chuyển chúng quyết định. Ông đã chỉ rõ bản chất hàng hoá của tiền và sự phụ thuộc của tiền vào quy luật giá trị. Đồng thời ông đã phát triển một cách tỉ mỉ và rõ ràng cái tư tưởng về tính quy luật của số lượng tiền trong lưu thông. Tư tưởng đó đã được W.Petty nói đến rồi và đã được phái trọng nông và A.Smith nêu ra. Những nhận xét về tiền của A.Smith cũng rất độc đáo. Ông cho rằng sự xuất hiện của tiền không phải do một cá nhân nào hay một sự thoả thuận nào của mọi người mà có. Trái lại ông đặt vấn đề đúng khi tách tiền ra khỏi thế giới hàng hoá khi mà trình độ trao đổi hàng hoá đã phát triển đến mức cao nhất định. Ông chú trọng đến chức năng thanh toán của đồng tiền cùng các phương tiện kỹ thuật của sự thanh toán. A.Smith cũng thừa nhận tính tất yếu của sự thay thế tiền vàng và tiền bạc bằng tiền giấy. Ông còn chú ý cả đến khả năng to lớn của tín dụng trong hoạt động của chế độ tiền tệ mới. D.Ricardo đã phát triển lý luận về tiền tệ lên cao hơn và ông cũng đã viết khá nhiều về vấn đề tiền tệ, tron các tácphẩm khác nhau. Ông hiểu rõ bản chất hàng hoá của tiền tệ, tiền tệ là hàng hoá, vàng và bạc cũng giống những hàng hoá khác tỉ lệ với số lượng lao động càn thiết để sản xuất ra chúng và đưa chúng ra thị trường. Số luợng tiền tệ ở trong nước phụ thuộc vào giá trị của chúng. Theo ông, tiền có chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Nhưng ông không hiểu được nguồn gốc của tiền tệ và đơn giản hoá những chức năng của nó. Khi nghiên cứu về tiền giấy, ông cũng vạch rõ tiền giấy không có giá trị nội tại, giá trị này tuỳ thuộc vào số lượng của chúng. Sau đó ông đã nhầm lẫn quy luật lưu thông tiền giấy và quy luật lưu thông tiền tệ, đã rơi vào thuyết số lượng tiền tệ. 2.6. Lý luận về thuế. Trong cương lĩnh kinh tế của các nhà kinh tế tư sản cổ điển, những đề tài chính chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Những vấn đề đó đã làm cho giai cấp tư sản công nghiệp toàn thề châu Âu quan tâm rất nhiều, vì trong thực tiễn thuế khoa oqr thế kỷ XVIII còn rất nhiều tàn tích của chế độ phong kiến, và nhiều lúc túi tiền của gai cấp tư sản lắm lúc bị rỗng vì thuế. A.Smith mở đầu việc phân ticha vấn đề nằng cách nêu lên những đặc điểm của các thu nhập của nhà vua và chỉ tự bằng lòng với việc tập hợp những luận điểm rất nhạt nhẽo phản ánh một cách rõ rệt tính chát hạn chế của chủ nghĩa tự do tư sản. Theo tinh thần của chủ nghĩa tự do tư sản, ông đã nêu ra bốn nguyên tắc nổi tiếng của ông dể thu bất cư một thứ thuế nào. Theo những nguyên tắc đó, thì các thần dân của vua phải tham gia vào việc nuôi chính phủ “tuỳ theo khả năng và sức lực của mình”, phần thuế của mỗi người đóng góp phải được quy định một cách chính xác, chỉ được thu vào thời gian thuận lợi và theo một phương thức thích hợp với người đóng , với những chi phí ít nhất đối với nhà nước. Sau đó căn cứ cào những yêu sách của các nguyên tắc ấy, ông phân tích các thứ thuế khác nhau. Bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản, A.Smith khẳng định rằng cái gọi là lợi nhuận doanh nghiệp hay bộ phận lợi nhuận phụ thêm ngoài số lợi tức của tư bản “không thể bị đánh thuế một cách trực ti

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận học thuyết tư sản cổ điển.doc