WTO yêu cầu các nước và vùng lãnh thổ xin gia nhập phải đàm phán với mọi thành viên có quan tâm. Đàm phán gia nhập WTO bao gồm 4 giai đoạn:
a. Giai đoạn làm rõ chính sách: kèm theo đơn xin gia nhập, nước xin gia nhập phải đệ trình Bị vong lục mô tả hiện trạng chính sách thương mại. Một Ban công tác sẽ được thành lập, bao gồm các thành viên quan tâm đàm phán với nước xin gia nhập. Nước xin gia nhập có nghĩa vụ trả lời bằng văn bản các câu hỏi của các thành viên Ban công tác để làm rõ chính sách kinh tế - thương mại. Các câu hỏi và trả lời này sẽ là dữ liệu để Ban thư ký tổng hợp xây dựng Báo cáo của Ban công tác sau này.
b. Giai đoạn đàm phán: Đàm phán đa phương là đàm phán với cả Ban công tác về việc tuân thủ các hiệp định đa phương của WTO, theo đó, nước xin gia nhập phải đưa ra các cam kết về việc thực thi các hiệp định, lộ trình điều chỉnh pháp luật và hình thành các cơ chế, định chế cần thiết cho việc thực thi cam kết. Đàm phán song phương là đàm phán về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ với từng thành viên quan tâm, nhằm giải quyết các quyền lợi thương mại riêng. Khi kết thúc đàm phán song phương, các thoả thuận riêng sẽ được tổng hợp lại theo nguyên tắc “chỉ lấy cam kết tốt nhất” và mọi thành viên WTO đều được hưởng các cam kết “tốt nhất” này theo nguyên tắc MFN.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1722 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hội nhập WTO của Việt Nam dưới góc độ của Quy luật Lượng đổi - Chất đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong khoảng thời gian tương đối ngắn.
Trong thực tế, sự thay đổi về chất thông qua các bước nhảy hết sức đa dạng và phong phú. Nhìn chung, các bước nhảy thể hiện qua một số cách cơ bản sau:
Bước nhảy đột biến và bước nhảy diễn ra một cách dần dần :
Sự phân chia như vậy được dựa trên không chỉ thời gian của sự thay đổi về chất, mà còn dựa trên cả tính chất của bản thân sự thay đổi đó. Những bước nhảy đột biến, khi chất của sự vật được biến đổi một các nhanh chóng. Chẳng hạn, sự chuyển hoá của các hạt cơ bản…Những bước nhảy được thực hiện một cách dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Chẳng hạn, quá trình chuyển hoá từ vượn người thành người… Như vậy, sự khác nhau giữa hai loại bước nhảy vừa nêu không chỉ ở thời gian diễn ra sự thay đổi về chất, và cả ở cơ chế của sự thay đổi đó. Khi nói về bước nhảy dần dần, ngoài nhân tố tốc độ, chúng ta còn nói đến cơ chế của việc tạo ra chất mới. Ở đây, chất mới được tạo thành không phải ngay lập tức, mà được tạo thành từng phần.
Mặt khác, cũng cần phân biệt bước nhảy dần dần với sự thay đổi dần dần về lượng. Nhưng sự thay đổi dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục trong khuôn khổ của chất đang có; còn bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa chất này sang chất khác, là sự đứt đoạn của tính liên tục, là bước ngoặc quyết định trong sự phát triển.
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ
Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi về chất ở tất cả các mặt, các bộ phận, các nhân tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số nhân tố, một số bộ phận của sự vật đó. Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về những nhân tố cấu trúc, về những bộ phận cấu thành.. bước nhảy thường diễn ra bằng con đường từ những thay đổi về chất cục bộ đến thay đổi về chất toàn bộ.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển dần từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.
Vì vậy để có tri thức tương đối đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó. Con đường nhận thức đó sẽ diễn ra như sau: từ những nhận thức ban đầu về chất đi tới nhận thức lượng, trong quá trình đó, tri thức về chất được làm sâu sắc thêm, khi đạt đến tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng chúng ta sẽ có tri thức tương đối hoàn chỉnh về sự vật đó.
Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nên trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên. Trong sự phát triển xã hội, phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Xem xét tiến hóa và cách mạng trong mối quan hệ biện chứng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng. Hiểu đúng đắn mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại hữu khuynh cũng như chủ nghĩa tả khuynh.
Việc nắm vững nội dung của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề trong công cuộc đổi mới mà đặc biệt là công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội mà đặc biệt là quá trình hội nhập sẽ tạo ra bước nhảy về chất tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung và bước nhảy về chất của quá trình hội nhập nói riêng. Như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình hội nhậphiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Ở đây bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước.
PHẦN II
HỘI NHẬP WTO CỦA NƯỚC TA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
QUY LUẬT LƯỢNG ĐỔI-CHẤT ĐỔI.
Quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại đã chỉ ra rằng : Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Kế thừa quy luật này Đảng và nhà nước ta nhất quán trong đường lối, chủ trương, và quá trình thực hiện để đưa nước ta hội nhập vào kinh tế quốc tế đặc biệt là tổ chức thương mại thế giới WTO. “Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.”2 ( Trích văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X)
1. Giới thiệu về WTO :
Ngày 07 tháng 11 năm 2006, sau gần 12 năm đàm phán, tại Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO. Đây là một thành công to lớn, là sự kiện trọng đại của lịch sử thương mại và ngoại giao của Việt Nam, là một cột mốc quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế..
WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995, ‘‘hiện có 153 thành viên (Việt Nam là thành viên thứ 150)’’3.Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên. Trong lịch sử gần 50 năm của mình, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8 diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994 tại Marrakesh thủ đô của Marocco (còn gọi là Vòng đàm phán Uruguay và Hiệp định thành lập WTO còn gọi là Hiệp định Marrakesh) nội dung là cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ chức Thương mại thế giới, viết tắt là WTO.
1.1. Cơ cấu tổ chức của WTO
1.1.1. Cơ cấu tổ chức
WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như:
- Hội nghị Bộ trưởng.
- Đại Hội đồng.
- Các Ủy ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Các Ủy ban chức năng thông thường gồm các đại sứ và trưởng phái đoàn ở Geneva nhưng đôi khi các viên chức cũng được gửi tới từ thủ đô của các quốc gia thành viên; Ủy ban Chức năng họp vài lần một năm ở Hội sở của WTO tại Geneva (Thụy Sĩ ) là cơ quan lo về xem xét chính sách. Ủy ban Giải quyết tranh chấp cũng họp với lịch trình tương tự.
- Các Ban hàng hóa, Ban dịch vụ và Ban sở hữu trí tuệ. Các ban này báo cáo công tác cho các Ủy ban chức năng. Ngoài ra còn có một số lượng các tiểu ban đặc biệt, nhóm công tác và các thành viên xử lý các hiệp ước ký riêng giữa các thành viên cá thể và các khu vực khác nhau như môi trường, phát triển, xử lý đơn gia nhập và các hiệp ước thương mại khu vực.
- Cơ quan đảm nhiệm chức năng hành chính – thư ký là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký.
1.2.2. Trụ sở WTO
Trụ sở đặt tại Geneva, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Geneva). Mỗi thành viên WTO có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp. Các thỏa thuận của WTO phải được phê chuẩn ở tất cả nghị viện (Quốc hội) của các quốc gia thành viên.
1.2. Chức năng của WTO
WTO có những chức năng cơ bản sau đây:
- Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của WTO.
WTO có cả một hệ thống hiệp định đa phương (bắt buộc) và hiệp định nhiều bên (không bắt buộc) điều chỉnh các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp về đầu tư liên quan đến thương mại và các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
- Thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại.
Năm 2001, vòng đàm phán đầu tiên của WTO được phát động với tên gọi là Nghị trình Phát triển Đôha, hay Vòng đàm phán Đôha. Vòng đàm phán này cho tới nay vẫn chưa kết thúc.
- Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các Thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định.
Bảo đảm tuân thủ các luật lệ của WTO cũng như sự bình đẳng giữa các thành viên.
- Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
1.3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của WTO:
1.3.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử:
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối xử tối huệ quốc ( MFN) quy định một thành viên phải đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên khác. Đối xử quốc gia ( NT) quy định phải dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước.
WTO cho phép có ngoại lệ về đối xử MFN và NT nhưng phải theo đúng quy định của WTO.
1.3.2. Nguyên tắc thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia:
Bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v..
1.3.3. Nguyên tắc minh bạch hoá:
Bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh.
1.4. Hệ thống văn kiện pháp lý của WTO bao gồm:
a. Hiệp định thành lập WTO, thường gọi tắt là Hiệp định WTO hay Hiệp định Marrakesh;
b. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), chuyên điều chỉnh thương mại hàng hoá;
c. Các hiệp định phụ trợ cho GATT (Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, Hiệp định về xác định trị giá hải quan v..v.);
d. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), chuyên điều chỉnh thương mại dịch vụ;
e. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs);
f. Thoả thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp;
g. Cơ chế rà soát chính sách thương mại;
h. Các hiệp định thương mại nhiều bên (Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng, Hiệp định về mua sắm chính phủ).
Các văn kiện trên được gọi là các văn kiện đa phương, mang tính bắt buộc, các thành viên phải cam kết tuân thủ theo nguyên tắc “chấp nhận trọn gói”. Với các hiệp định nhiều bên không mang tính bắt buộc, các thành viên được khuyến khích tham gia trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, các thành viên mới gia nhập từ năm 1995 đều phải tham gia các hiệp định này, ít nhất là cũng phải đàm phán và đưa ra cam kết nào đó.
1.5. Đàm phán gia nhập WTO :
WTO yêu cầu các nước và vùng lãnh thổ xin gia nhập phải đàm phán với mọi thành viên có quan tâm. Đàm phán gia nhập WTO bao gồm 4 giai đoạn:
a. Giai đoạn làm rõ chính sách: kèm theo đơn xin gia nhập, nước xin gia nhập phải đệ trình Bị vong lục mô tả hiện trạng chính sách thương mại. Một Ban công tác sẽ được thành lập, bao gồm các thành viên quan tâm đàm phán với nước xin gia nhập. Nước xin gia nhập có nghĩa vụ trả lời bằng văn bản các câu hỏi của các thành viên Ban công tác để làm rõ chính sách kinh tế - thương mại. Các câu hỏi và trả lời này sẽ là dữ liệu để Ban thư ký tổng hợp xây dựng Báo cáo của Ban công tác sau này.
b. Giai đoạn đàm phán: Đàm phán đa phương là đàm phán với cả Ban công tác về việc tuân thủ các hiệp định đa phương của WTO, theo đó, nước xin gia nhập phải đưa ra các cam kết về việc thực thi các hiệp định, lộ trình điều chỉnh pháp luật và hình thành các cơ chế, định chế cần thiết cho việc thực thi cam kết. Đàm phán song phương là đàm phán về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ với từng thành viên quan tâm, nhằm giải quyết các quyền lợi thương mại riêng. Khi kết thúc đàm phán song phương, các thoả thuận riêng sẽ được tổng hợp lại theo nguyên tắc “chỉ lấy cam kết tốt nhất” và mọi thành viên WTO đều được hưởng các cam kết “tốt nhất” này theo nguyên tắc MFN.
c. Giai đoạn hoàn tất văn kiện gia nhập: Trên cơ sở kết quả đàm phán đa phương và song phương, Ban công tác sẽ tổng hợp và hoàn tất bộ văn kiện gia nhập, bao gồm các tài liệu chính: Một là Báo cáo của Ban công tác; hai là Biểu cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá; ba là Biểu cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ; bốn là dự thảo Nghị định thư gia nhập.
d. Giai đoạn phê chuẩn: bộ văn kiện gia nhập sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại hội đồng thông qua. Theo quy định của Hiệp định WTO, Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng sẽ thông qua văn kiện gia nhập khi có ít nhất là 2/3 số thành viên tán thành. Tuy nhiên, trên thực tế, các nước chỉ có thể gia nhập khi không có bất cứ thành viên nào phản đối. Sau khi bộ văn kiện được thông qua, nước xin gia nhập sẽ tiến hành thủ tục phê chuẩn trong nước. 30 ngày sau khi Ban Thư ký WTO nhận được thông báo của nước xin gia nhập về việc đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn, nước đó mới chính thức trở thành thành viên của WTO .
2.2 Hội nhập WTO của ta :
2.2.1 : Tính thiết yếu của việc gia nhập WTO
Nhận thức rõ sự cần thiết tham gia tổ chức WTO, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhận định "...Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương...tiến tới gia nhập WTO..."4
Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 4/1/1995. Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam tới WTO. Tháng 7/1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Ngày 29/11/2006 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) của Việt Nam và ngày 11/01/2007 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Gia nhập WTO đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây:
- Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO giúp khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO.
- Thứ hai, gia nhập WTO tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Việc bãi bỏ Hiệp định đa biên (MFA) về hàng dệt sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Các nhà xuất khẩu Dệt -May Việt Nam sẽ được đảm bảo trong vòng 10 năm sau khi trở thành thành viên của WTO, đồng thời, các nước nhập khẩu sẽ không có các hạn chế MFA đối với hàng dệt may của Việt Nam. Đối với các mặt hàng nông sản, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu mặt hàng này hơn vì hạn ngạch nhập khẩu gạo và các nông sản khác sẽ được thay thế bằng thuế và thuế sẽ phải được cắt giảm theo Lộ trình quy định của WTO. Việt Nam có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa, đặc biệt là các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. So với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của Vòng Uruguay vì theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới.
- Thứ ba, Việt Nam có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm.
- Thứ tư, Việt Nam có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.
- Thứ năm, Việt Nam có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng…
- Thứ sáu, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm…
2.2 Quá trình hội nhập WTO của Việt Nam:
2.2.1. Tiến trình gia nhập WTO :
1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc)
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”
1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA)
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
12-2001: BTA có hiệu lực
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán, với 2 mốc quan trọng:
10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
2.2.2. Đánh giá Việt Nam sau 03 năm gia nhập WTO.
Quá trình hội nhập KTQT đặc biệt là hội nhập WTO của ta là một quá trình lâu dài và tất yếu. Đánh giá thực tại, kết quả sau 03 gia nhập WTO cho ta cái nhìn thực tế để có những định hướng thích đáng với quá trình hội nhập này. Sau 03 năm gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta đã thật sự thay da đổi thịt, đời sống của các tầng lớp dân cư không ngừng được cải thiện:
-Thứ nhất, việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,... Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.
-Thứ hai, việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP năm 2008 của nước ta vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, năm 2009 ở mức 5,32% và năm 2010 là 6,78%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; Năm 2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, đạt mức 68,49 tỷ USD, mức năm 2009 là 56,6 tỷ USD và năm 2010 là 71,6 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,...
-Thứ ba, do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi trường kinh doanh và đầu tư trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đã thu hút trên 20,3 tỷ USD, tăng 69,2% so với năm 2006. Từ năm 2008 trở đi, dù tình hình kinh tế thế giới rơi vào cơn đại khủng hoảng, nhưng năm vốn FDI cam kết đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007, mức năm 2009 là 21,48 tỷ USD. Ðiều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và những quyết sách tích cực và hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.
-Thứ tư, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ.
-Thứ năm, ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 574 nghìn tỷ đồng,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hội nhập WTO của Việt Nam dưới góc độ của Quy luật Lượng đổi - chất đổi.doc