Tiểu luận Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Điều 571BLDS quy định: “ sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm ”. Các quan hệ bảo hiểm được hình thành từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, song bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.

Sự kiện bảo hiểm là những rủi ro xảy ra nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm và đã gây ra những tổn thất nhất định trong phạm vi bảo hiểm đã được xác định trước theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3504 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó hành vi gây thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba; có lỗi của người gây thiệt hại; có thiệt hại thực tế đối với bên thứ ba; thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi gây thiệt hại và ngược lại hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm, đồng thời cũng là căn cứ để xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Căn cứ vào mức độ lỗi để xác định người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, một phần hoặc liên đới bồi thường, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm xác định trách nhiệm bồi thường của mình. Nếu đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng người thứ ba không đòi người tham gia bảo hiểm phải bồi thường, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không phải chịu trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm. Chỉ khi nào có yêu cầu bồi thường của bên thứ ba thì doanh nghiệp bảo hiểm mới phải bồi thường. Việc bồi thường thiệt hại có thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cũng có thể là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người thứ ba có thể là bất kì tổ chức hoặc cá nhân nào bị thiệt hại. Còn bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì người thứ ba được xác định cụ thể là người có một quan hệ hợp đồng đối với người tham gia bảo hiểm và bị thiệt hại từ hợp đồng đó do hành vi của người tham gia bảo hiểm gây ra. Hợp đồng bảo hiểm chỉ tồn tại giữa người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu pháp luật không có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền đòi bồi thường đối với người tham gia bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba thuộc về người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm có thể thoả thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại. Trong một số trường hợp, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị thiệt hại, pháp luật quy định người thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu bồi thường. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể giới hạn trách nhiệm bảo hiểm hoặc không giới hạn trách nhiệm bảo hiểm. Để đảm bảo lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời nâng cao ý thức của người tham gia bảo hiểm, các danh nghiệp bảo hiểm thường đưa ra các giới hạn trách nhiệm xác định mức bồi thường tối đa của doanh nghiệp bảo hiểm đối với những hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể. Khi gây thiệt hại, mức trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm có thể là rất lớn, song mức trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ trong phạm vi số tiền bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận. Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự có một số nghiệp vụ bảo hiểm không xác định số tiền bảo hiểm mà trách nhiệm dân sự phát sinh bao nhiêu doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường bấy nhiêu. Trường hợp này số tiền bảo hiểm được hiểu là toàn bộ thiệt hại xảy ra. Điều khoản số tiền bảo hiểm được đặt ra nhằm mục đích giới hạn phạm vi trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, để đảm bảo kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp bảo hiểm phải tính toán để giới hạn phạm vi trách nhiệm của mình trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể. Đối với một số trường hợp ngoại lệ, khi doanh nghiệp bảo hiểm ký hợp đồng với người tham gia bảo hiểm, trong hợp đồng không xác định số tiền bảo hiểm cụ thể thì khi rủi ro xảy ra doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ bảo hiểm toàn bộ đối với thiệt hại. Nguyên nhân ra đời và vai trò của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Cuộc sống sinh hoạt, lao động, sản xuất của con người luôn luôn gắn liền với môi trường xung quanh đó là thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ tạo cho con người những điều kiện thuận lợi mà còn mang đến cho con người bao nhiêu điều bất hạnh như: động đất, núi lửa, mưa bão…. Không những thiên nhiên mà ngay cả con người cũng có thể gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người khác. Pháp luật quy định: vốn, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được nhà nước bảo hộ; bất kì tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại mà mình đã gây ra. Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài chính của người có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không đủ khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách nhiệm bồi thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác. Đối với người bị thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự tạo cho họ một tâm lý yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm họ có quyền thu phí bảo hiểm từ khách hàng song không phải lúc nào họ cũng phải đứng ra bồi thường thay cho khách hàng. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời đóng vai trò chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội. Đặc biệt điển hình là các vụ tai nạn giao thông, đó là nỗi khiếp sợ và ám ảnh của mỗi người dân vì thiệt hại của nó gây ra không hề nhỏ nguyên nhân là do tình hình phương tiện giao thông gia tăng chóng mặt song cơ sở hạ tầng của giao thông vận tải không đáp ứng kịp, còn chưa đồng bộ, yếu kém. Chính vì vậy, Nhà nước khuyến khích nhân dân và các tổ chức tham gia vào bảo hiểm nhằm giải quyết các thiệt hại một cách kịp thời nhất. 4. Khái quát các quy định của pháp luật liên quan đến hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu khách quan của con người  và ra đời từ rất lâu trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng ra đời tương đối muộn. Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm gắn liền với những sự kiện lịch sử của đất nước. Trước thời kỳ đổi mới chưa có văn bản luật chính thức nào điều chỉnh các lĩnh vực thuộc bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Sau thời kỳ đổi mới kinh tế được 10 năm, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao từ 6 - 9 %/ năm, môi trường kinh tế- xã hội và môi trường pháp lý có nhiều thuận lợi hơn. Cùng với sự phát triển thì hàng loạt các rủi ro không những do thiên tai mà còn do cả con người gây ra khiến người ta quan tâm hơn đến loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự để nhằm giảm thiểu thiệt hại, nhanh chóng khắc phục những rủi ro đó. Sau Nghị định 100 /CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, từ năm 1994 đến nay, nhiều công ty bảo hiểm mới được cấp phép hoạt động. Có thể nói, Nghị định 100 /CP ra đời là một bước ngoặt có tính cách mạng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nghị định này đã thể hiện chủ trương phát triển một ngành đa thành phần của nhà nước ta. Ngày 09 tháng 12 năm 2000 Quốc Hội đã thông qua Luật  kinh doanh bảo hiểm, tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nhờ có Luật  kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh bình đẳng hơn và đang thực sự là động lực thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam, trong đó có bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Ngày 16-9-2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/2008/NĐ-CP quy định về bảo hiểm bắt buộc (BHBB) trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; quyền và nghĩa vụ của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm; trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện BHBB trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thay cho Nghị định số 115/1997/NĐ-CP ngày 17-12-1997. II. Những quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm gồm: Bên nhận bảo hiểm (bên bán bảo hiểm) và bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm). Bên nhận bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là một tổ chức có tư cách pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được gọi là doanh nghiệp bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm là bên đã nộp cho bên nhận bảo hiểm một khoản tiền là phí bảo hiểm. Khác với bên nhận bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi có nhu cầu bảo hiểm về một đối tượng bảo hiểm nhất định hoặc trong trường hợp pháp luật buộc phải tham gia bảo hiểm về một trách nhiệm dân sự nhất định. Nếu bên tham gia bảo hiểm là cá nhân thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng tự có của chủ thể trong việc thực hiện kiểm soát và làm chủ hành vi của mình. Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình…. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự được quy định theo pháp luật dưới hình thức văn bản có hai dạng: Hình thức của hợp đồng bảo hiểm được thiết kế dưới dạng giấy chứng nhận bảo hiểm, trong trường hợp mà việc tham gia bảo hiểm là bắt buộc theo quy định của pháp luật thì người tham gia bảo hiểm thường phải chứng minh với người thứ ba rằng họ đã tham gia bảo hiểm và hợp đồng đó đang có hiệu lực pháp luật . Nghĩa là họ luôn phải mang theo bên mình một bằng chứng chứng minh hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. Ví dụ: người điều khiển xe máy phải luôn mang giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô, xe máy, nếu không việc cho lưu thông chiếc xe đó là vi phạm. Đơn bảo hiểm thường là hình thức của hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, có thể có các dạng khác nhau và thường bao gồm nhiều trang. Các thông tin ghi trên đơn chi tiết, cụ thể tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm: tên, địa chỉ của chủ doanh nghiệp bảo hiểm; bên mua bảo hiểm; đối tượng bảo hiểm; số tiền bảo hiểm; phạm vi bảo hiểm; điều kiện bảo hiểm; điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; thời hạn bảo hiểm; mức phí và phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; giải quyết tranh chấp. Đơn bảo hiểm thường kèm theo các phụ lục để chi tiết hoá các thông tin đặc điểm của từng khách hàng cụ thể, đồng thời giải thích thuật ngữ trong đơn bảo hiểm. Nội dung đơn bảo hiểm gồm phần mở đầu; phần quy định về các điều khoản chính; phần quy định về các điều khoản loại trừ; phần quy định về các điều kiện; chữ ký, ghi rõ họ tên của người đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đủ bốn yếu tố: Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật là những hành vi xâm phạm tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác được thực hiện không phù hợp với quy định của pháp luật (trừ hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp trong giới hạn phòng vệ chính đáng, trong giới hạn của tình thế cấp thiết, do sự kiện bất ngờ). Có thiệt hại xảy ra. Chỉ khi có thiệt hại xảy ra thì mới phải bồi thường; vì vậy cần phải xác định xem có thiệt hại xảy ra hay không và thiệt hại là bao nhiêu. Để từ đó khắc phục một phần hoặc toàn bộ tổn thất tài chính cho người bị thiệt hại. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Có lỗi của người gây thiệt hại. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do hành vi vô ý gây ra. Vì bản chất của bảo hiểm là chỉ bảo hiểm rủi ro nên phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm chỉ bao gồm các thiệt hại do hành vi vô ý; do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra; không bảo hiểm với những thiệt hại do hành vi cố ý gây ra. Sự kiện bảo hiểm. Điều 571BLDS quy định: “ sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm ”. Các quan hệ bảo hiểm được hình thành từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, song bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Sự kiện bảo hiểm là những rủi ro xảy ra nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm và đã gây ra những tổn thất nhất định trong phạm vi bảo hiểm đã được xác định trước theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. 1.5. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm và loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra trong đời sống dân sự rất phong phú, đa dạng; và doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm đối với những khoản tài chính mà theo quy định của pháp luật người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba bị thiệt hại. Vì vậy giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là công việc không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm. Việc giới hạn trách nhiệm bảo hiểm làm cho nhà bảo hiểm chủ động hơn trong việc dự phòng các tình huống có phát sinh trách nhiệm và đánh giá được mức độ bồi thường tối đa trong từng tình huống có phát sinh trách nhiệm đối với từng hợp đồng cụ thể. Ngoài ra nhà bảo hiểm cũng có thể chia sản phẩm của mình thành nhiều mức khác nhau cho phù hợp với thị trường. Người tham gia bảo hiểm sẽ chỉ được bảo hiểm trong phạm vi giới hạn bảo hiểm đó mà không được bảo hiểm cho toàn bộ trách nhiệm dân sự của mình đối với người thứ ba, họ phải tự thực hiện phần trách nhiệm vượt quá giới hạn bảo hiểm đối với người thứ ba. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là một trong những điều khoản bắt buộc phải có của hợp đồng bảo hiểm được quy định tại khoản 1, Điều 16: “Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Quy định nhằm hạn chế phạm vi những thiệt hại có thể xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm, đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thông qua phần loại trừ này, doanh nghiệp bảo hiểm giữ phí bảo hiểm ở một mức hợp lý vì nếu bảo hiểm với phạm vi không hạn chế mức phí sẽ phải rất cao, sẽ hạn chế khả năng tham gia hợp đồng bảo hiểm của những người có nhu cầu bảo hiểm. Cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm có ý định trục lợi bảo hiểm bằng những hành vi cố ý. Điều khoản loại trừ cũng có thể bao gồm việc từ chối trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp có thảm hoạ, có thể gây tổn thất trên diện rộng và làm mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm. Ví dụ: sóng thần, động đất, núi lửa… thiệt hại vô cùng lớn. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp: bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý; bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm. (Khoản 3 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Bên bảo hiểm: Quyền: Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp các thông tin chi tiết liên quan đến đối tượng được bảo hiểm, đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm; phải thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm. Có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật. Có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự. Bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau: cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc để được bồi thường; không thông báo cho bên bảo hiểm những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm dù bên bảo hiểm đã yêu cầu…. Nghĩa vụ: Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác về hợp đồng và giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm; cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm sau khi giao kết hợp đồng và thu phí bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm  hoặc từ chối bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Bên tham gia bảo hiểm: Quyền: Bên mua bảo hiểm có quyền lựa chọn mua bảo hiểm ở bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào đang tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam; yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm để tìm hiểu những thông tin cần thiết, xem xét hợp đồng bảo hiểm đó có phù hợp với nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh của mình hay không; cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho mình. Bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm so với thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc pháp luật đã quy định thì yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm trả tiền tương ứng với thời gian chậm trả. Bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp sau: trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trường hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm. Nghĩa vụ: bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho bên nhận bảo hiểm các thông tin chi tiết liên quan đến đối tượng được bảo hiểm. Có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bởi hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trong một lần trước khi bên bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm; hoặc phí bảo hiểm được đóng nhiều lần theo định kỳ thì bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm vào định kỳ đầu tiên trước khi được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm và phải tiếp tục đóng phí của các kỳ sau theo đúng định kỳ. Phải áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật; thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, khai báo trung thực về tình hình diễn biến của rủi ro, thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về thiệt hại để làm cơ sở cho việc xét bồi thường. Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: - Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia hợp đồng: Bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là doanh nghiệp bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm có thể là tổ chức, cá nhân (đủ năng lực hành vi dân sự), tổ hợp tác, hộ gia đình. - Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng: không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. - Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng. - Điều kiện về hình thức hợp đồng: văn bản bằng giấy chứng nhận hoặc đơn bảo hiểm. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng: thời điểm bắt đầu là thời điểm giao kết hợp đồng cụ thể là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản được coi là bằng chứng của hợp đồng. Thời điểm kết thúc khi: hợp đồng được hoàn thành (sự kiện bảo hiểm xảy ra và doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm hoặc hết thời hạn thoả thuận trong hợp đồng đó); Khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì hợp đồng đó được coi là chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo của bên này; đối tượng của bảo hiểm không còn (chủ thể tham gia bảo hiểm không có khả năng gây thiệt hại cho người khác từ hoạt động tương ứng với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm mà họ tham gia); bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi (hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm gắn liền với tài sản cụ thể, khi tài sản đó được chuyển giao quyền sở hữu cho người khác nếu không có thoả thuận về việc đồng thời chuyển giao trách nhiệm được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi); hoặc hợp đồng bị hủy bỏ. 2. Những mặt tồn tại trong quy định hiện hành về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Thứ nhất: Nhà làm luật chưa có những văn bản hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng điểm a khoản 2 điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm: doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường; và điều 22 quy định về hợp đồng bảo hiểm vô hiệu, đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra các bản án phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Từ đó việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người mua bảo hiểm cũng như doanh nghiệp bảo hiểm không được bảo đảm, việc có hành vi lừa dối để nhận được các khoản bồi thường không được xử lý triệt để và hiệu quả, và tình trạng này vẫn còn phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai: Các quy định hiện hành về phòng chống trục lợi trong bảo hiểm ở Việt Nam còn nhiều bất cập, không theo kịp thực tiễn. Biện pháp chế tại để xử lý các hành vi trục lợi bảo hiểm còn quá thiếu. Theo điều 17 luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam, khi phát hiện hành vi trục lợi bảo hiểm, doanh nghiệp có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ hợp đồng với đối tượng đó. Nghị định số 18/2003/NĐ – CP 12/8/2003 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm quy định các hành vi được coi là trục lợi trong việc: tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại,…chỉ bị phạt từ 1 đến 5 triệu đồng hoặc chỉ bị phạt từ 5 đến 10 triệu đồng đối với những hành vi đồng lõa với đối tượng trục lợi. Bộ luật hình sự chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội trục lợi bảo hiểm. Đối tượng trục lợi bảo hiểm chỉ bị xử với tội danh liên quan như: tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản,…Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ trục lợi bảo hiểm chưa được điều tra và xét xử nghiêm minh, chưa có tính răn đe. Thứ ba: Trong quy tắc bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, chưa bổ sung các quy định khi mà người tham gia bảo hiểm có những hành vi vi phạm pháp luật hiện hành trong bảo hiểm xe cơ giới (có độ cồn quá quy định, vượt đèn đỏ, đi vào đường cấm, đua xe, đánh võng…) để đưa vào những điểm loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Thứ tư: Tại khoản 1 mục 1.3 và khoản 2 mục 2.2 điều 9 Quy tắc ban hành kèm theo quyết định số 23/2007/QĐ – BTC quy định: 1.3 Trường hợp chủ xe cơ giới tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một xe cơ giới thì mức bồi thường thiệt hại về người sẽ là tổng mức bồi thường thiệt hại về người của từng hợp đồng bảo hiểm. Tổng mức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc
Tài liệu liên quan