Tiểu luận Hợp đồng dân sự vô hiệu -Thực trạng và giải pháp

 

+Các HĐDS mua bán tài sản thuộc sở hữu người khác

HĐDS vô hiệu dạng này, đối tượng hợp đồng thường gây nên tranh chấp là các tài sản có đăng ký quyền sở hữu; Với những loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu pháp luật dân sự qui định : khi thực hiện giao kết mua bán, tặng cho., các bên phải lập hợp đồng bằng văn bản có công chứng , chứng thực, nếu liên quan đến QSD đất thì phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép, nếu là tài sản chung của vợ-chồng, thì phải có sự đồng ý của cả hai, qui định là vậy , thực tiễn các bên vẫn lừa dối nhau, nhầm lẫn, giả mạo để giao kết;

Các hợp đồng mua bán tài sản mà tài sản là tài sản có đăng ký sở hữu , thuộc sở hữu chung của vợ chồng, thường người đứng tên trong giấy đăng ký tự ý mua bán, tặng cho mà không cần có sự đồng ý của người kia, hợp đồng mua bán mà tài sản mua bán là di sản thừa kế, chia cho nhiều người, một người hưởng thừa kế tự ý đem bán mà chưa có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác, tự ý cầm cố tài sản thuộc sở hữu của khác., một số dẫn chứng dưới đây sẽ giúp chúng ta nhìn nhận vấn đề này cụ thể và sâu sắc hơn

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5084 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hợp đồng dân sự vô hiệu -Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề HĐDS vô hiệu : Không có thụ lý Số liệu trên được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 Năm 2004 : +Tổng số án dân sự được thụ lý là : 52 vụ +Trong đó tổng số các khởi kiện về yêu cầu tuyên bố HĐDS vô hiệu, huỷ HĐDS chỉ có : 3 vụ Số liệu này được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 10 năm 2004 Theo số liệu lưu trử tại Toà dân sự - TAND tỉnh Gia Lai Năm 2004 : +Tổng số án dân sự đã thụ lý (sơ thẩm và phúc thẩm) là : 48 vụ +Trong đó các khởi kiện về yêu cầu huỷ HĐDS, tuyên bố HĐ DS vô hiệu là : 12 vụ Số liệu này được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 10 năm 2004 Qua các thống kê trên cho thấy, HĐDS vô hiệu hiện nay đang tồn tại rất nhiều, song vấn đề nghiêm trọng là, thực trạng này không nằm trong sự quản lý của các cơ quan chức năng, HĐDS vô hiệu được thực hiện ngoài tầm kiểm soát, giám sát của cơ quan có thẩm quyền, không tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật ; Khi một HĐDS vô hiệu được giao kết, thực hiện, cũng có nghĩa là một hành vi vi phạm pháp luật được thực thi trên thực tế, gây xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự, ảnh hưởng đến quản lý nhà nước, vi phạm nghiêm trọng pháp chế XHCN. Chúng cần phải kip thời điều chỉnh và giám sát . Thứ hai : Thực trạng về các dạng HĐDS vô hiệu cơ bản Thông qua điều tra thực tiễn, thăm dò ý kiến trong quần chúng, kết hợp việc nghiên cứu hồ sơ các vụ án tại TAND, đơn thư khiếu nại, tố cáo tại UBND các cấp, và các cơ quan ban ngành khác, có thể tổng kết được như sau: Căn cứ vào phạm vi các QHXH về HĐDS đã được pháp luật tác động, hay chưa, hiện nay thực trạng về HĐDS vô hiệu tồn tại dưới hai loại cơ bản : HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật về HĐDS ( Loại hợp đồng này đã được pháp luật dự liệu và đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh, nhưng việc giao kết hợp đồng vi phạm các qui định pháp luật ) ; HĐDS vô hiệu do các đối tượng giao kết của hợp đồng chưa được pháp luật điều chỉnh( Một số QHXH về HĐDS chưa đượcpháp luật dự liệu, chưa có QPPL điều chỉnh,nên việc giao kết hợp đồng không có cơ sở pháp lý ), nói cách khác, các đối tượng giao kết của hợp đồng chưa được pháp luật dân sự nói chung, pháp luật về HĐDS nói riêng dự liệu đến, và cũng chưa có một qui phạm pháp luật nào khác đề cập, chẳng hạn : hợp đồng mang bầu thuê, tặng cho trứng, ADN, hay các loại HĐDS ký qua fax, giao kết bằng thư điện tử . . . 1.1. HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật về HĐDS ( Có PL điều chỉnh, nhưng việc giao kết hợp đồng không tuân thủ hoặc vi phạm PL ) Thực trạng vô hiệu này hiện không phải là vấn đề cơ bản, bức xúc trong dư luận, thế nhưng đây là tồn tại vi phạm nghiêm trọng pháp luật dân sự. Mặc dù những quan hệ về HĐDS này đã được rất nhiều chế định luật, ngành luật tương đối hoàn thiện, chi tiết, đầy đủ điều chỉnh, tuy nhiên với nhiều nguyên do khác nhau, khách quan có, chủ quan có, thêm vào đó là sự vận động phát triển phức tạp của cơ chế thị trường đã tạo nên tồn tại phong phú và đa dạng về HĐDS vô hiệu, trong trường hợp này gồm cả những HĐDS vô hiệu một phần, HĐDS vô hiệu toàn bộ, HĐDS vô hiệu về nội dung, vô hiệu về hình thức. 1.1.1. HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật HĐDS về nội dung Đối với các HĐDS vô hiệu này là các điều khoản khác nhau trong hợp đồng không tuân thủ theo qui định pháp luật hoặc vi phạm pháp luật HĐDS, hoặc thiếu các điều khoản cơ bản mà qui định pháp luật HĐDS bắt buộc cần phải có..., chẳng hạn : đối tượng giao kết của hợp đồng mua bán là tài sản không thuộc sở hữu của bên bán, hoặc là tài sản thuộc sở chung của vợ, chồng, trong hợp đồng vay tài sản thì lãi suất cho vay lại quá cao, các HĐDS về chuyển nhượng đất thì QSDĐ được chuyển nhượng sai mục đích sử dụng... , phổ biến có các HĐDS vô hiệu trong các trường hợp: Các HĐ DS vô hiệu do có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội ( Đ 137_BLDS ) HĐDS vô hiệu này là giao dịch dân sự vô hiệu được qui định tại điều137 Bô luật dân sự. Đây là thực trạng hợp đồng vô hiệu ẩn, nghĩa là các hợp đồng vô hiệu này không được lưu giữ, thông kê tại TAND hoặc cơ quan có thẩm quyền, nhưng qua số liệu thống kê xã hội học, thì đây lại là một con số đáng quan tâm Các HĐDS này là các thoả thuận mua bán hàng hoá quốc cấm, như : ma tuý, đồ cổ, động thực vật rừng cấm săn bắt, mua bán ; các thoả thuận về vay tài sản với lãi suất cao ; các hợp đồng mua bán, tặng cho quyền sử dụng đất nông nghiệp nhưng người được nhận QSDĐ lại không có nhu cầu sử dụng đất theo qui định luật đất đai 1993 ; Chuyển nhượng Quyền SD đất không có hợp đồng... +Các hợp đồng vay tài sản lãi suất cao Xuất phát từ nhu cầu thường ngày vốn sản xuất, kinh doanh, do ốm đau, cưới sinh, các chủ thể có yêu cầu vay mượn nhanh chóng ( vay nóng ), thủ tục đơn giản, tiện lợi, nên các bên đã giao kết hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân với nhau, khi đó thủ tục vay đơn giản, vốn vay cập nhật, đáp ứng kịp thời theo yêu cầu, nếu hợp đồng vay có thế chấp thì không cần công chứng , chứng thực, ngược lại lãi suất vay thường cao hơn rất nhiều so với qui định lãi suất tối đa mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định ( thông thường 2% đến 3% trên 1 ngày 1 ngày, thậm chí lên đến 10% đến 15% trên 1 tháng ) . +Các hợp đồng mua bán vi phạm pháp luật Hiện nay trên địa bàn Gia Lai nói riêng, khu vực các tỉnh tây nguyên, miền núi nói chung đang diễn ra tình trạng mua bán xe máy, khai thác gỗ trái phép một cách ồ ạc . Do đặc thù nền kinh tế ở những địa phương này là sản xuất nông nghiệp, làm nương rẫy , khai thác rừng, kinh doanh gỗ, trong khi đó lãnh thổ gần biên gới, đường xá, địa hình là các đường dã chiến, đường mòn, sình lầy, đồi dốc dẫn đến nhu cầu về các loại phương tiện vận tải rẻ, động cơ mạnh, để lưu thông trên các đường rừng núi, dốc trơn; Đáp ứng các yêu cầu đó chỉ có những loại xe như : Citi Hàn Quốc, DH, " xe 67 " của Nhật, có điều tồn tại ở đây là hầu hết những xe này đều có nguồn gốc nhập lậu,không có kê khai đóng thuế Hải quan, dẫn đến các hợp đồng mua bán xe dạng này rất đơn giản, các bên mua bán với nhau bằng giấy "viết tay", các bên thoả thuận giá cả, thanh toán cho nhau ,nhận xe, không cần biển số kiểm soát , không cần giấy tờ đăng ký; Bên cạnh , nhu cầu về gỗ cũng không kém phần cấp thiết, thêm vào đó tài nguyên rừng của các địa phương này rất phong phú, đa dạng, với nhiều nguồn khai thác khác nhau, hợp pháp có , bất hợp pháp có. Song phần lớn các HĐDS mua bán gỗ để xây dựng thì cây gỗ được mua bán là gỗ khai thác trái phép ( gỗ lậu ), thế nhưng,khi cây gỗ thành phẩm được giao cho các bên tại công trình thì không ai kiểm tra, hiển nhiên cây gỗ thành phẩm đó trở thành gỗ được mua bán hợp pháp. Các HĐDS vô hiệu do các điều khoản cơ bản còn thiếu, chưa phù hợp, hoặc vi phạm pháp luật về HĐDS Thực trạng vô hiệu này đang rất phổ biến trong giao lưu dân sự, nội dung các loại hợp đồng vô hiệu này thường thiếu điều khoản theo quy định pháp luật, đối tượng giao kết vi phạm các qui định pháp luật dân sự, pháp luật về HĐDS, có nhiều vi phạm khác nhau, hợp đồng mua bán tài sản không thuộc sở hữu của mình, hoặc tài sản chung của vợ , chồng chỉ do một người vợ hay chồng đem bán, hợp đồng cầm cố ,thế chấp tài sản có đăng ký sở hữu nhưng bên cầm cố không phải là người có tên theo giấy đăng ký, hợp đồng xây dựng nhà không có giấy phép xây dựng... . Phần lớn các HĐDS này vi phạm qui định của pháp luật là do các bên chủ thể giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối nhau, kết quả HĐDS vô hiệu theo qui định tại điều 138, 141, 142 Bộ luật dân sự. Về mặt pháp lý, tuy đối tượng này được pháp luật dân sự, pháp luật về HĐDS qui định tưong đối đầy đủ, chi tiết và chặt chẽ, các bên hoặc do không nhận thức đúng đắn, hoặc cố tình vi phạm, thực hiệu giao kết các HĐDS vi phạm pháp luật; +Các HĐDS mua bán tài sản thuộc sở hữu người khác HĐDS vô hiệu dạng này, đối tượng hợp đồng thường gây nên tranh chấp là các tài sản có đăng ký quyền sở hữu; Với những loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu pháp luật dân sự qui định : khi thực hiện giao kết mua bán, tặng cho..., các bên phải lập hợp đồng bằng văn bản có công chứng , chứng thực, nếu liên quan đến QSD đất thì phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép, nếu là tài sản chung của vợ-chồng, thì phải có sự đồng ý của cả hai, qui định là vậy , thực tiễn các bên vẫn lừa dối nhau, nhầm lẫn, giả mạo để giao kết; Các hợp đồng mua bán tài sản mà tài sản là tài sản có đăng ký sở hữu , thuộc sở hữu chung của vợ chồng, thường người đứng tên trong giấy đăng ký tự ý mua bán, tặng cho mà không cần có sự đồng ý của người kia, hợp đồng mua bán mà tài sản mua bán là di sản thừa kế, chia cho nhiều người, một người hưởng thừa kế tự ý đem bán mà chưa có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác, tự ý cầm cố tài sản thuộc sở hữu của khác..., một số dẫn chứng dưới đây sẽ giúp chúng ta nhìn nhận vấn đề này cụ thể và sâu sắc hơn -Theo bản án số : 14 / SST , ngày 25 tháng 08 năm 2000 của TAND Tp. Pleiku_tỉnh Gia Lai : Chị T.T. Thuỷ và anh N.V. Nhân là vợ chồng, hai người có mua xe ô tô hiệu Huyn-Dai, đây là tài sản chung của vợ chồng, chị Thuỷ đứng tên trong gấy đăng ký sở hữu xe; Ngày 16 - 03 - 1999 chị Thủy vào Tp. Hồ Chí Minh để chữa bệnh, ở nhà , anh N.V. Nhân đã tự ý bán chiếc xe ô tô nói trên cho bà L.T. Hoa Hợp đồng mua bán xe do UBND cấp xã xác nhận, chữ ký của chị T.T.Thuỷ là do anh N.V. Nhân giả mạo TAND cấp sơ thẩm đã tuyên hợp đồng mua bán xe trên là vô hiệu do giả tạo theo điều 138 - Bộ luật dân sự -Theo hồ sơ thụ lý số: 60 / DSST, ngày 26 - 11 - 2002 của TAND thị xã An Khê Ông T.T.Công có vay thế chấp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, chi nhánh An Khê ( NH-AK ) Tài sản thế chấp : xe ô tô nhãn hiêụ Kaz-Maz Khi đến hạn trả nợ, ông Công đã không trả được nợ; NH-AK tiến hành tịch biên, bán phát mãi xe nói trên, khi đó ôngT.D.Tiến là người đấu giá trúng xe Kaz Maz trên Tuy nhiên hợp đồng mua bán xe giữa ông Tiến và NH-AK trong cuộc đấu giá bị toà án tuyên là vô hiệu Lý do : Trong biên bản phát mãi tài sản xiết nợ, ông Công đã ký nhận vào biên bản, nhưng biên bản thiếu hồ sơ để thể hiện rằng ông Công muốn bán dứt điểm chiếc xe, mà chỉ có ý nghĩa rằng ông Công chỉ ký xác nhận đồng ý cho NH-AK kê biên mà thôi Nói cách khác : NH-AK chỉ kê biên xe ô tô của ông Công, quyền sở hữu vẫn của ông Công , như vậy NH-AK đã phát mãi xe ô tô Kaz-Maz khi không có uỷ quyền của chủ sở hữu, tức không có sự chấp thuận của ông Công. -Theo hồ sơ thụ lý án lưu trữ tại TAND thị xã An Khê ( Hồ sơ này hiện chưa được xet xử, người nghiên cứu không tiện nêu số thụ lý ) Nguyên bà L. Nhẫn có quyền sử dụng nhà ở gắn liền với đất ở, lúc còn sống : Bà Nhẫn đã viết di chúc thứ nhất để lại căn nhà nói trên cho cháu nội là ông H. Khoa Nhưng vì tình cảm của ông Khoa không tốt, nên bà Nhẫn đã viết lại di chúc thứ hai, để căn nhà nói trên cho cháu ngoại là bà D.T. Bích. Khi bà Nhẫn mất, bà Bích đi làm ăn xa chưa về, khoản một thời gian sau, ông Khoa đã cầm di chuc thứ nhất cùng giấy khai tử của bà Nhẫn làm thủ tục nhận di sản thừa kế, tiếp nữa, ông Khoa đã bán căn nhà thừa kế cho ông Hùng Sau này bà Bích về đã khởi kiện đòi lại nhà, như vậy di chúc thứ hai đã có hiệu lực thi hành, bà Bích là người thừa kế hợp pháp, dẫn đến hợp đồng mua bán giữa ông Khoa và ông Hùng là vô hiệu, vì đối tượng mua bán ( căn nhà ) không thuộc sở hữu của người bán là ông Khoa, mặc dù hợp đồng mua bán đã thực hiện đúng theo thủ tục pháp luật qui định. +Các HĐDS vô hiệu do có các điều khoản khác vi phạm pháp luật Dưới cơ chế của nền kinh tế thị trường, bộ mặt xã hội ngày càng thay đổi, đời sống ổn định , khấm khá hơn, tạo nên một diện mạo mới về các nhu cầu vật chất , nhất là các nhu câu về nhà ở ,nhu cầu về xây dựng, chuyển nhượng đất đai... Lĩnh vực hợp đồng về xây dựng nhà ở được pháp luật về HĐDS qui định rất cụ thể, khi xây dựng nhà ở , công trình kiến trúc phải có dự toán thiết kế công trình, giấy phép của cơ quan xây dựng, sự phê duyệt của UBND cấp có thẩm quyền ... Thực tế vẫn còn rất nhiều vi phạm nghiêm trọng, nhiều HĐDS xây dựng vô hiệu do vi phạm các qui định này, phần nhiều các hợp đồng xây dựng nhà ở không có giấy phép xây dựng, thiếu bản dự toán thiết kế công trình, chưa có sự cho phép của UBND cấp có thẩm quyền. Ngoài ra còn có các hợp đồng xây dựng nhà ở trên đất sử dụng vào mục đích khác, không được làm nhà ở trên đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản, các hợp đồng xây dựng nhà ở trên đất thuộc hành lang bảo vệ an toàn đê điều, hành lang bảo vệ an toàn các công trình công cộng khác ...Điều đó đã gây nguy cơ đe doạ sự an toàn các công trình công cộng, gây nguy cơ đe doạ về an toàn tính mạng con người, tạo khó khăn cho quản lý nhà nước về công trình, đô thị ,gây ảnh hưởng nghiêm trọng lợi ích xã hội. Trên đây là những thực trạng hợp đồng vô hiệu rất nghiêm trọng, là phần chìm nguy hiểm của tản băng lớn về HĐDS vô hiệu trong giao lưu dân sự hiện nay, gây thiệt hại cho các lợi ích chính đáng, mất trật tự quản lý nà nước đe doạ pháp chế XHCN. 1.1.2. HĐDS vô hiệu do vi phạm qui định pháp luật về hình thức HĐDS Loại HĐDS vô hiệu này được qui định tại điều 139, Bộ luật dân sự. Để xác định một HĐDS phải ký kết theo hình thức nào, do nhiều nguồn luật khác nhau điều chỉnh, Bô luật dân sự 1995; NQ 58/ 1998/ NQ-UBTVQH10, ngày 20 tháng 08 năm 1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 07 năm 1991, Luật đất đai 1993, Luật đất đai 2003 _ Phần về hợp đồng chuyển nhượng QSD đất, hợp đồng cho thuê, thế chấp, giá trị QSD đất, hoặc có liên quan đến QSD đất... Dạng tồn tại HĐDS vô hiệu do không tuân thủ qui định về hình thức ít phong phú, đa dạng, chỉ gồm hai lĩnh vực cơ bản: Loại hợp đồng có liên quan đến tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản khi mua bán phải đăng ký giao dịch bảo đảm; các HĐDS có liên quan đến quyền sử dụng đất và nhà ở. Tuy dạng hợp đồng vô hiệu này không phong phú ,đa dạng về lĩnh vực vi phạm, song đây là các hợp đồng vô hiệu có số vụ việc tranh chấp phổ biến, bức xúc nhất hiện nay, là một lĩnh vực cấp thiết, có nhiều tranh luận, là vấn đề thời sự nóng bỏng luôn được đề cấp tại các cấp, các ngành . Nhất là các HĐDS có liên quan đến QSD đất , nhà ở , hồ sơ khởi kiện, khiếu nại đang chiếm phần lớn trong thụ lý của TAND, hồ sơ lưu trữ tại UBND các cấp ( theo thống kê có được tại lưu trữ của toà dân sự _ TAND tỉnh Gia Lai, năm 2004, tổng số án dân sự thụ lý là 48 vụ, trong đó có 12 vụ yêu vầu huỷ HĐDS, tuyên bô HĐDS vô hiệu,thì chiếm đến 9 vụ có liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng QSD đất,mua bán nhà ở ) Nhìn chung trường hợp này tồn tại dưới 2 thực trạng : Các HĐDS vô hiệu do không tuân thủ về hình thức có liên quan đến QSD đất Các HĐDS loại này pháp luật dân sự, pháp luật đất đai qui định rõ rằng: -Hợp đồng phải được lập thành văn bản, phải có công chứng , chứng thực, được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền, có xác nhận của chính quyền địa phương là đất không có tranh chấp ; -Đất đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất . Qui định là vậy, song tại TAND, UBND các cấp hiện nay, hầu hết các hợp đồng bị khởi kiện ,khiếu nại đều không tuân thủ theo thủ tục, hình thức đã qui định. +Đối với những hợp đồng chuyển nhượng QSD đất được ký kết trước ngày 01 tháng 07 năm 2004,đa số là hợp đồng được xác nhận , chứng thực không đúng thẩm quyền ( các hợp đồng được giao kết trong thời gian này luật đất đai qui định là do phòng công chứng, hoặc UBND cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền chứng nhận ), phần lớn các hợp đồng lại là giấy viết tay, chỉ do UBND cấp xã chứng thực, hoặc do khóm trưởng, tổ trưởng tổ khu phố ký nhận, làm chứng ( điển hình của các trường hợp này là hợp đồng chuyển nhượng QSD đất, hợp đồng thế chấp giá trị QSD đất để vay tiền giữa các cá nhân với nhau,loại thế chấp này đôi khi là giao kết bằng hợp đồng miệng...); đất được chuyển nhượng ,tặng cho chưa có giấy chứng nhận QSD đất.. . +Riêng đối với các HĐDS liên quan đến QSD đất được ký từ ngày 01 tháng 07 năm 2004 trở đi ( ngày luật đất đai 2003 có hiệu luật thi hành ) thì vi phạm ngược lại. Theo qui định của luật đất đai 2003, phần các HĐDS liên quan đến QSD đất , thẩm quyền công chứng chứng thực các hợp đồng này được giao cho hai cơ quan : phòng công chứng và UBND cấp xã ( đối với hợp đồng giữa các bên giao kết là cá nhân , hộ gia đình ) ; Thực tế từ ngày 01 tháng 07 năm 2004 đến nay, qua hơn bốn tháng thi hành, tình trạng các hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, nhất là hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa các bên chủ thể là cá nhân, hộ gia đình vẫn còn do UBND cấp huyện chứng thực, điều này không đúng theo qui định của luật đất đai 2003. Thực trạng này được thu thập tại báo cáo của phòng công chứng số III, tỉnh Gia Lai, theo đó trong khoản thời gian từ ngày 01 tháng 07 năm 2004 đến ngày 20 tháng 12 năm 2004, phòng công chứng đã nhận sao y gần 100 hợp đồng chuyển nhượng QSD đất được ký kết từ ngày 01 tháng 07 năm 2004, do UBND cấp huyện chứng thực . Các HĐDS vô hiệu liên quan đến các lĩnh vực khác ( Tài sản phải đăng ký Sở hữu, tài sản khi giao dịch phải đăng ký giao dịch bảo đảm... ) Ngoài các vấn đề về đất đai, nhà ở, thực tiễn còn tồn tại các HĐDS vô hiệu khác ,như :Khi mua bán xe máy, mà xe máy được mua bán là tài sản chung của vợ chồng, nhưng giấy đăng ký chỉ mang tên của một người vợ hoặc tên của người chồng, người đứng tên trên giấy đăng ký đó thường tự ý bán xe, không cần có sự đồng ý của người sở hữu chung còn lại, hợp đồng được giao kết rất đơn giản, chỉ bằng giấy viết tay, không cần công chứng, chứng thực, sau đó bên bán nhận tiền, bên mua nhận xe và giấy đăng ký xe, không làm thủ tục sang tên đổi chủ Cũng liên quan đến vấn đề này, tại các hiệu cầm đồ hiện nay thường nhận cầm cố các loại xe máy, mà người đi cầm cố không phải là người có tên trong đăng ký xe ( không phải chủ sở hữu ), thủ tục đơn giản, không tuân thủ theo qui định của pháp luật, bên nhận cầm cố chỉ cần giao biên nhận, trả tiền, người cầm cố giao xe, không có giấy đăng ký sở hữu , hợp đồng không được lập thành văn bản , hợp đồng không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền ... 1.2. Hợp đồng dân sự vô hiệu do đối tượng của hợp đồng chưa được pháp luật dân sự , pháp luật về HĐDS qui định ( Pháp luật chưa dự liệu và điều chỉnh ) Bên cạnh thực trạng cấp thiết, nóng bỏng, mang tính thời sự của những HĐDS vô hiệu có liên quan đến đất đai, nhà ở, thực tế hiện nay đang tồn tại một thực trạng HĐDS vô hiệu khác đang được dư luận quan tâm, còn gây nhiều tranh luận, chưa có cở sở pháp lý điều chỉnh - Các HĐDS " có đối tượng giao kết mà pháp luật chưa qui định ", nghĩa là trong giao lưu dân sự có xuất hiện các đối tượng này, song vấn đề rằng đối tượng đó có được phép giao kết, hay bị cấm giao kết không, trình tự thủ tục ký kết như thế nào...,chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện, mặc dù những đối tưọng giao kết này là chính đáng, không trái đạo đức xã hội, đều do các bên bình đẳng, tự nguyện thoả thuận ( mang bầu thuê, HĐ DS qua email, fax... ) . Hiện nay xã hội ngày một văn minh ,tiến bộ; khoa học ngày càng phát triển, hiện đại. Đã có nhiều thành tựu khoa học được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống để phục vụ tốt hơn nũa, đáp ứng đầy đủ hơn nữa nhu cầu của con người, cải tạo xã hội loài người, nhất là các tiến bộ khoa học trong lĩnh vực sinh học, y học, công nghệ thông tin. Điều đó đã góp phần ổn định kinh tế , xã hội, văn hoá , chính trị, đồng thời dẫn đến sự thay đổi đáng kể về mặt quan điểm đạo đức xã hội. Thực tiễn đã xuất hiện các nhu cầu mới, hình thành nên các quan hệ xã hội mới mà pháp luật chưa dự liệu được, không có văn bản pháp luật điều chỉnh,điển hình : 1.2.1. HĐDS vô hiệu liên quan đến dịch vụ công nghệ cao( Mang bầu thuê, cải tạo ADN, thụ tinh nhân tạo.. ) Thực tế, tình trạng hiếm muộn đang là vấn đề phổ biến, có những cặp vợ chồng,trong cuộc sống hôn nhân gia đình họ không thể có khả năng sinh con ( điều kiện kinh tế ổn định ), nhu cầu họ rất cần một người con để làm gạch nối giữ gìn hạnh phúc gia đình. Ngược lại có những người khác lại có khả năng sinh con, nhưng điều kiện kinh tế khó khăn . Vì hạnh phúc gia đình ,hai bên chủ thể giao kết hợp đồng " mang bầu thuê ". Mục đích giao kết hợp đồng là rất nhân đạo, không trái đạo đức xã hội, không nhằm kinh doanh thu lợi nhuận , mà các bên chỉ mong muốn, người không có con sẽ có được đứa con để chăm sóc, người mang bầu thuê có được một khoản đền bù thoả đáng, không ảnh hưởng đến sức khỏe, đạo đức, vì y học ngày nay rất phát triển về thụ tinh nhân tạo, cấy gen, tặng cho trứng .... 1.2.2. HĐDS vô hiệu liên quan đến công nghệ thông tin ( HĐ ký kết qua Fax, email... ) Cũng thế đối với sự phát triển của công nghệ khoa học thông tin, trong các HĐDS mua bán, các bên giao kết với nhau qua fax, bán hàng thông qua email, như vậy hình thức giao kết dạng này cũng chưa thật sự có cơ sở pháp lý cụ thể, chính xác đề điều chỉnh ,nên khi có tranh chấp, các dạng HĐDS này đôi khi cũng bị xem là vô hiệu Các HĐDS giao kết kiểu này được các bên chủ thể mang ra công chứng, chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi thụ lý những hồ sơ hợp đồng loại này, các cơ quan có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn trong việc xác định thẩm quyền, bởi lẽ các HĐDS thế này không vi phạn pháp luật, cũng không bị pháp luật cấm, song cũng chưa có cơ sở pháp lý để giải quyết . Thật ra đây là HĐDS vô hiệu cả về nội dung lẫn hình thức, để giải quyết hậu quả pháp lý cũng gặp rất nhiều vướng mắc. Ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu tự nhiên phù hợp với đạo đức xã hội, không đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể. Tóm lại : Pháp luật về HĐDS nước ta, đặc biệt là chế định HĐDS được qui định trong Bộ luật dân sự là tương đối hoàn chỉnh, tiến bộ, đã điều chỉnh được phần lớn các vấn đề về HĐDS, có sự kế thừa và phát huy những ưu điểm của pháp luật trước đây. Tuy nhiên qua gần 10 năm thi hành Bộ luật dân sự, thực tiễn cho thấy chế định về HĐDS còn bộc lộ một số bất cập nhất định, gây khó khăn cho việc thực hiện giao kết HĐDS, dẫn đến một thực trạng đáng lo ngại về HĐDS vô hiệu. Phần lớn các HĐDS vô hiệu là do các bên chủ thể hoặc thiếu hiếu biết , hoặc cố tình vi phạm pháp luật về HĐDS trong khi giao kết. Các loại vi phạm phải kể đến là giao kết hợp đồng không đảm bảo các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, không đảm bảo yêu cầu về nội dung, không đảm bảo các quy định về hình thức . Các HĐDS vô hiệu bởi các bên chủ thể lừa dối, giao kết giả tạo, nhầm lẫn, hoặc những HĐDS vô hiệu toàn phần là do vi phạm điều cấm của pháp luật ( hợp đồng mua bán dâm, hợp đồng mua bán ma túy, mua bán vũ khí... ) Còn HĐDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực hợp đồng chuyển nhượng QSD đất, hợp đồng tặng cho, thế chấp giá trị QSD đất, hợp đồng mua bán nhà ở , hợp đồng cầm cố, mua bán tài sản có đăng ký sở hữu, giao dich có đăng ký bảo đảm ( mua bán xe mà thuộc tài sản chung về chồng, cầm cố xe thuộc sở hữu người khác... ). Con số các HĐDS vô hiệu trên thực tế là rất đáng kể, thế nhưng sự quản lý, kiểm tra , giám sát của các cơ quan có thẩm quyền là rất hạn chế, chỉ thông qua các đơn thư khiếu nại tại UBND các cấp, các tranh chấp bị khởi kiện tại tòa án. Trên đây là vấn đề mang tính thời sự cấp thiết, có nhiều tranh luận, bức xúc trong nhân dân, ảnh hưởng đến nhu cầu thiết thực, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi chính đáng các bên đương sự. Thiết nghĩ chúng ta cần phải nhanh chóng đề ra những giải pháp thiết thực nhằm khắc phục bất cập của pháp luật, đảm bảo điều chỉnh toàn diện các nhu cầu trong giao lưu dân sự, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội . ---------------- CHƯƠNG 2 NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP 2.1. Nguyên nhân . Theo báo cáo nghiên cứu ở chương 1, chúng ta thấy thực trạng các HĐDS vô hiệu là một tồn tại phong phú , đa dạng, phức tạp, là một vấn đề nghiêm trọng, bức xúc hiện nay. Vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, chủ quan có, khách quan có, do đòi hỏi phức tạp của cơ chế thị trường, do kỹ thuật lập pháp còn nhiều bất cập, vấân đề giải thích pháp luật, thực tiễn áp dụng chưa có sự thống nhất... 2.1.1. Mặt khách quan Do kỷ thuật lập pháp của chúng ta còn chưa hoàn thiện, mặc dù đã có sự tham khảo pháp luật các nước, được sự giúp đỡ của chuyên gia các nước phát triển như Nhật, Pháp... Song các văn bản pháp luật vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau; kết quả, các qui định pháp luật chưa bao quát toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống , mọi quan hệ xã hội, chưa có sự giải thích chính thức, việc áp dụng không thống nhất . Hơn thế ngày nay, thế giới ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày một tiến bộ, hiện đại, nền kinh tế thị trường vận động, phát triển phức tạp, nhu cầu trong giao lưu dân sự ngày càng xuất hiện các QHXH mới , phức tạp hơn , chính đáng và phù hợp với đạo đức xã hội; Nhưng pháp luật chưa có sự tiên liệu, nên không có qui phạm điều chỉnh kịp thời, như : mang bầu thuê, tặng cho trứng ,giao phối gen, hoặc các hợp đồng được ký kết bằng email, fax..., đã dẫn đến các HĐDS có nội dung, hoặc hình thức mà đó chưa phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật HĐDS, dẫn đến những tranh chấp loại này chưa có hướng dẫn giải quyết, không có cơ sở pháp lý để thực hiện. Ngoài ra , ở các địa phương ,các vùng miền nông thôn, vùng sâu vùng xa,đời sống còn khó khăn, cơ sở vật chất cò thiếu thốn, phương tiện thông tin đại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHợp đồng dân sự vô hiệu -Thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan