MỤC LỤC
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
B1. Lý luận.
I. Tính tất yếu khách quan về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu khách quan .
2. Khả năng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
II. Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Phát triển lực lượng sản xuất.
2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
4. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinhh thần của nhân dân
B2. Thực trạng và giải pháp.
I. Thực trạng.
1.Vấn đề Phát triển lực lượng sản xuất
2.Vấn đề Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Vấn đề Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
4. Vấn đề Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinhh thần của nhân dân
II Giải pháp
1.Vấn đề Phát triển lực lượng sản xuất
2.Vấn đề Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
3. Vấn đề Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
4.Vấn đề Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinhh thần của nhân dân
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2048 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hướng đi cho Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bỏ qua chế độ tư bản ở Việt Nam
Đặc điểm nổi bật nhất trong thời đại ngày nay là cách mạng kỹ thuật gắn với cách mạng khoa học , tạo thành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển hết sức mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ phát triển kinh tế của các nước. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa công nghệ cho phép cải tạo điều kiện phát triển con người, chuyển từ lao động cơ bắp sang lao động trí tuệ. Cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm đổi thay cơ cấu các ngành như công nghiệp nguyên tử, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp điện tử, công nghiệp vũ trụ, công nghiệp khai thác đại dương, sự phát triển của máy tính điện tử, người máy, kỹ thuật vi điện tử, vi sinh học ...Tất cả điều đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu tổ chức doanh các doanh nghiệp, nâng cao trình độ xã hội hoá và chi phối sự biến đổi cơ bản về quan hệ sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện đó nó cho phép và buộc chúng ta phải tận dụng , khai thác , sử dụng tất cả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự ủng hộ, giúp đỡ và hợp tác của các nước, các tổ chức phi chính phủ về vốn, công nghệ, quản lý...Tạo điều kiện sớm đổi mới cơ sở kỹ thuật, cơ cấu kinh tế, phân công lao động,tạo thêm việc làm, chuyên môn hoá sản xuất... Sự giúp đỡ và hợp tác có hiệu quả bằng nhiều hình thức trong cá ngành, các lĩnh vực.
Nguồn lao động dồi dào, truyền thống lao động cần cù, chịu khó, thông minh sáng tạo của dân tộc ta, tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, tiềm lực ban đầu về cơ sở vật chất – kĩ thuật, đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, công nhân lành nghề,kết cấu hạ tầng... là những yếu tố hết sức quan trọng để mở rộng sự hợp tác , tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư là thế mạnh cho tăng chưởng kinh tế nhanh.Để khai thác, phát huy thế mạnh đó đòi hỏi phải có đường lối chính sách đúng đắn cùng với cơ chế quản lý thích hợp. Nhân dân ta hiểu được xu thế phát triển của xã hội loài người đã từng bị áp bức bóc lột, khát vọng giải phóng và vươn tới chế độ tốt đẹp hơn. Công cuộc đổi mới của đất nước có sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam( bao gồm chiến lược, sách lược, tổ chức thực tiễn, chính sách) định hướng đúng đắn, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường và điều kiện hợp tác đầu tư và phát triển kinh tế... giữ vững vị trí quyết định.
Cuối cùng, kết quả bước đầu của sự đổi mới từ đại hội đảng lần thứ VI đến nay đã củng cố và khảng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là hoàn toàn đúng đắn Trong những nhân tố chủ quan và khách quan phân tích ở trên, thì nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định.
Hơn nữa biến những khả năng thành hiện thực là một quá trình, nó tác động và đòi hỏi công dân, cũng như tập thể, từ cơ sở đế trung ương, trong tấtcả các lĩnh vực các nghành của đới sống kinh tế xã hội nước ta.
II. những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ ở việt nam
Nước ta quá độ lên CNXH từ điểm xuất phát thấp: nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp còn ở tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn, lực lướng sản xuất lạc hậu, năng xuất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém, gây khó khăn, cản chở cho sự phát triển và tăng trưởng; thu nhập quốc dân bình quân đầu người còn thấp là một trong các quôc gia nghèo đang phát triển.
Vì vậy, những nhiệm vụ kinh tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ cần phải thực hiện là:
Phát triển lực lượng sản xuất.
Phát triển lực lượng sản xuất – cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công, lạc hậu trong nền kinh tế quốc dân.Đó là bước chuyển căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, trong đó then chốt là nghành chế tạo tư liệu sản xuất sở dĩ như vậy là vì : theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin tái sản xuất mở rộng của khu vực sản xuất TLSX, quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng của toàn bộ nền kinh tế,sự phát triển của các nghành chế tạo tư liếu sản xuất là cơ sở phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển khoa học công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần làm tốt những vấn đề cơ bản sau:
Một là, phải xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học công nghệ. Sở dĩ như vậy là vì, khoa học công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, trong khi đó đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ nước ta còn nhỏ bé chất lượng còn thấp, khả năng của chúng ta về vốn, phương tiện nghiên cứu còn rất hạn hẹp.
Vậy phương pháp chung cho sự phát triển khoa học công nghệ ở nước ta : phát huy những lợi thế đất nước, tận dụng mói khả năng để dạt trình độ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng nhiều nghành khoa học hơn, ở mức cao hơn, và phổ biến hơn những thành tựu khoa học công nghệ, từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
Hai là, phải tạo được một điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học – công nghệ, việc xác định những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học - công nghệ chỉ phát triển được khi đảm bảo điều kiện kinh tế – xã hội cần thiết. Những điều kiện đó là : đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ có số lượng đủ lớn, chất lượng cao, đầu tư ở mức cần thiết, các chính sách kinh tế xã hội phù hợp.
Trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, người lao động – lực lượng sản xuất không chỉ phải nâng cao trình độ văn hoá và khoa học công nghệ mà còn phải trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời là người tạo ra sự phát triển đó.
2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN
Xây dựng và hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam suy cho cùng là tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế(TPKT)đều phát triển,từ đó phát huy tốt nhất vai trò của mỗi thành phần kinh tế
Xử lý hài hoà mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các TPKT, từng bước phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Phương hướng cơ bản đó đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện QHSX phải tuân thủ theo quan điểm chỉ đạo sau đây:
a. Xây dựng và hoàn thiện QHSX theo định hướng XHCN phải làm cho QHSX phù hợp hơn với các thành phần kinh tế, đồng thời thúc đẩy cải cách môi trường thể chế nhằm thực hiện các mục tiêu của sự nghịêp CNH, HĐH đất nước
Trước hết, cần nhận thức rõ bản chất, nội dung, phạm vi và các hình thức và các hình thức biểu hịên của từng thành phần kinh tế. Cần thấy rằng đặc trưng kinh tế nước ta trong thời kỳ chuyển đổi là một cơ cấu động. Do vậy trong quá trình phát triển phải thừa nhận sự chuyển đổi giữa các thành phần cũng như những bước tiến hoặc bước lùi trong việc hoàn thiện QHSX ở mỗi một thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Theo hướng đó việc phát triển các thành phần kinh tế cần chú ýtới các vấn đề như:
Đối với kinh tế tự nhiên phải chuyển sang kinh tế hàng hoá. Đối với sản hàng hoá nhỏ cần đẩy mạnh các hình thức liên kết, tổ chức quản lý và định hướng sự phát triển nhằm phục vụ sự phát triển chung. Đối với kinh tế tiểu chủ và tư bản tư nhân cần tạo điều kiện để có thể phát huy hết tiềm lực của họ. Đối với kinh tế nhà nước cần sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có và vai trò của nó trong n nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
Đối với thành phần kinh tế tư bản có vốn đầu tư nước ngoài cần tạo môi trường đầu tư thông thoáng và cần bình đẳng đối sử với các doanh nghiệp trong nước
Đồng thời với việc đổi mới sở hữu, muốn hoàn thiện đồng bộ các mặt của QHSX , phải chú ý nâng cao trình độ tổ chức quản lý và hoàn thiện các quan hệ phân phối một cách thích ứng trong các thành phần phù hợp với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo cơ chế mới.
b. Xây dựng và hoàn thiện QHSX đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực điều tiết của nhà nước, thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa hình thức sở hữu đang làm nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối.
Quan hệ phân phối trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải kết hợp phân phối theo lao động và hưởng lợi theo tài. Phấn đấu để tạo điều kiện để mỗi người lao động đều có một phần tài sả, vốn đóng góp cổ phần của mình vào các cơ sở sản xuất, dịch vụ để tạo điều kiện phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu là phải đảm bảo đời sống của người lao động từng bước được nâng cao góp phần xoá đói giảm nghèo. Chấp nhận sự phân hoá giầu nghoè trong từng tầng lớp dân cư và giữa các vùng nhưng có giới hạn. Khuyến khích mọi người tạo việc làm chính đáng. Nghiêm cấm những hành vi bất chính, bòn rút của công, hà hiếp quần chúng lao động làm mất lòng tin của nhân dân và triệt tiêu động lực của người lao động. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu độc lập và đan xen sẽ tạo ra nhiều hình thức phân phối, tỷ lệ phân phối khác nhau về nguồn lực sản phẩm
Quan hệ đối với tài sản bao gồm nhiều quyền khác nhau. Do vậy, cần phân biệt rõ các quyền này và gắn chúng với việc hưởng lợi trong phân phối kết quả sản xuất kinh doanh
Phân phối vật phẩm vật phẩm tiêu dùng phải căn cứ vào lao động giản đơn và lao động phức tạp, khuyến khích nâng cao tay nghề lao động giản đơn, chú ý tới lao động của các nhà khoa học và quản lý.
Phân phối dựa theo nguyên tắc thị trường không tránh khỏi sự bất bình đẳng trong thu nhập , mà hậu quả của nó là sự mất ổn định kinh tế, chính trị, xã hội như nhiều nước phát triển theo con đường kinh tế thị trường đã trải qua.Vì vậy phải có sự điều tiết của nhà nước thông qua thuế thu nhập và phúc lợi xã hội. Vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng tăng cường khả năng điều tiết Vĩ mô của nhà nước nhằm điều hoà thu nhập, đảm bảo phúc lợi giữa các tầng lớp dân cư.
c. Xây dựng và hoàn thiện QHSX, một mặt phải tạo điều kiện để các thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, mặt khác phải đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất tiêu biểu cho chế độ kinh tế xã hội đương thời,giữ vị trí thống trị chi phối còn trong thời kỳ quá độ chưa có thành phần kinh tế nào đủ mạnh để giữ vai trò thống trị chi phối các thành phần kinh tế khác.V.I.Lênin đã chỉ ra, các thành phần kinh tế chỉ là những mảng , những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập tương đối , vừa tác động lẫn nhau.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần,đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế vừa đan xen vừa cạnh tranh nhau, luôn vận động và chuyển đổi trong quá trình phát triển.Định hướng XHCN là phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo. Thực tế các DNNN ở nước ta chưa đáp ứng được vai trò này kể cả về hiệu quả sản xuất kinh doanh,trình độ tổ chức quản lý và phương thức phân phối. Vì vậy, muốn Việt Nam cần phải tiếp tục sắp xếp lại , phát triển doanh nghiệp nhà nước một mặt phải đặt trong tương quan với nguồn lực nhà nước , một mặt phải đặt trong quan với các thành phần kinh tế khác. Về tổ chức quản lý phải chặt chẽ hơn, phải có chế độ phân phối hợp lý để vừa nâng cao mức sống người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất cho doanh nghiệp, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các DNNN cũng có nghĩa là nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Điều đó có nghĩa là củng cố tính chất xã hội chủ nghĩa trong thành phần kinh tế này trên tất cả các mặt của QHSX để tạo cho nó nhanh chóng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam.
Đồng thời với việc thiết lập vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, hoàn thiện QHSX phải bảo đảm tính dân chủ và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (TPKT) tạo điều kịên phát huy đầy đủ năng lực và vị trí của mỗi TPKT, hình thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững nếu các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng, có hiệu quả, có sức phát triển và cạnh tranh cao. Vấn đề này cần được thể hiện trong việc hoạch định các chính sách của nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc hai mặt : đối xử công bằng với mọi thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều ngang và đối xử khác nhau với các thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều dọc.
d. Xây dựng và hoàn thiện QHSX phải tính đến yếu tố thời đại mà đặc trưng của nó là quá trình mở cửa và hội nhập với xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, hiện nay không một quốc gia nào đóng cửa mà có thể phát triển. Trong điều kiện mới, thông qua việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, các nước có thể tranh thủ, tận dụng nguồn lực của nước ngoài tạo ra những bước những bước nhảy vọt, đột biến trong sự phát triển rút ngắn của mình.
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam những nguồn lực thu hút được từ bên ngoài sẽ góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới,năng suất lao động cao hơn đảm bảo cho sự phát triển thắng lợi của đất nước. Về quan hệ sản xuất, điều đó có nghĩa là rút ngắn sự phát triển mang tính chất tuần tự theo tiến trình lịch sử, đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần phải có chính sách thông thoáng để thu hút các nguồn lực đó và biến chúng thành nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Xây dựng và hoàn thiện QHSX ở nước ta theo hướng phù hợp với điều kiện hội nhập phải tạo điều kiện cho các TPKT đều được bình đẳng tham gia vào các quan hệ kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, cần xoá bỏ những nhận thức không đúng đang ngăn cản sự tham gia của các thành phần kinh tế trong quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo ra sự thông thoáng cho các quan hệ kinh tế phát triển. Phải điều chỉnh lại các chính sách đối ngoại của mọi thành phần kinh tế.Sắp xếp,bố trí,tổ chứclại nền kinh tế,thực hiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng hoá có khả năng và lợi thế sản xuất trong nước.
Quan niệm về kinh tế mở để hội nhập không có nghĩa là chỉ mở cửa với bên ngoài mà còn mở cửa thị trường bên trong. Điều này có nghĩa là phát triển sản xuất kinh doanh cần tuân theo tiêu chuẩn của thị trường thế giới hàng hoá của Việt Nam phải không được thua trên sân nhà. Việc mở cửa bên trong như vậy cũng đòi hỏi sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong các quan hệ sở hữu, phân phối và điều hành trong quản lý ở tầm vĩ mô của nhà nước. Đó là điều kiện cần thiết để tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế để các chủ thể kinh tế có điều kiện phát huy những tiềm năng và lợi thế của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chất sản phẩm được nâng cao theo tiêu chuẩn quốc tế .
Việc mở cửa, hội nhập với bên ngoài theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các hình thức và quan hệ kinh tế đối ngoại đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu lợi ích của các bên đối tác, phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác đòi hỏi phải đảm bảo phục vụ cho nhu cầu lợi ích quốc gia, dân tộc, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Trong qúa trình mỏ cửa,hội nhập, phải tăng cường và nâng cao năng lực quản lý công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước nhằm khắc phục những mặt tiêu cực do mở cửa gây ra, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật để khai thác tối ưu các nguồn lực bên ngoài và phát huy có hiệu quả nguồn lực bên trong, đáp ứng kịp thời các nhu cầu phát triển của nền kinh tế .
3. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại của mỗi quôc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thể hiện với nhiếu hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
a. kinh tế đối ngoại có vai trò to lớn:
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế , nối liền thị trường trong nước với thị trường quốc tế và khu vực. - hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư - Góp phần tích luỹ vốn phục vụ quá trình CNH-HĐH - Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công cuộc mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại trước hết chúng ta cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau nhằm đảm bảo bình đẳng và chủ quyền quốc gia về lãnh thổ, kinh tế, chính trị:
.,bình đẳng
.,Tôn trọng độc lập chủ quyền không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau
.,Giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã trọn
b. Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại
Việt nam cần phát triển tất cả các hình thức như:
., Ngoại thương (xuất khẩu,nhập khẩu)
., Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất ( nhận gia công xây dựng xí nghiệp với sự hùn vốn và công nghệ nước ngoài, hợp tác sản xuất quốc tế...
., Hợp tác khoa học kỹ thuật
., Đầu tư quốc tế
., Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế
4. không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân
Xuất phát từ đặc điểm của đất nước, đảng ta đã chủ trương đề cao vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm : kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, và tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Coi, phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực để phát triển kinh tế - Để đạt được mục tiêu này từ thực tiễn chúng ta cần thực hiện: - Phát triển mạnh lực lượng sản xuất - Tiếp tục hoàn thành chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bất chính, bất hợp lý - - Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch giầu nghèo ( khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo)
B.2- THựC TRạNG Và GIảI PHáP
I- THựC TRạNG
1. Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất
Việt Nam đã phát triển lực lượng sản xuất – cỏ sở vật chất kĩ thuật trong thời kì quá độ trên cơ sở thực hiện cỏ khí hoá nền sản xuất xã hội áp dụng những thành tựu khoa học hiện đại tuy nhiên về lực lượng sản xuất đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật còn thiếu trình độ thực tế và những bài học kinh nghiêm. Đội ngũ những công nhân, thợ lành nghề còn thiếu kém. Chưa đáp ứng được nhu cầu cho một nền sản xuất lớn trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Còn tình trạng thừa thày thiếu thợ, rất nhiều những cử nhân kĩ sư phải làm trái nghành nghề mà mình đã học trong khi đó những thợ lành nghề và công nhân sử dụng tốt những máy móc, giây truyền hiện đại của một nền sản xuất lớn thì còn thiếu. Qua đó ta thấy được sự lãng phí không nhỏ của lực lượng sản xuất và sự mất cân đối mang tính chất tiêu cực làm tổn hại đến quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, đã có rất nhiều các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp được xây dựng nhằm đảm bảo lực lượng sản xuất được đào tạo cho nền kinh tế hiện nay. Nhưng lực lượng đào tạo này còn chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất cả về số lượng và chất lượng bởi một số nguyên nhân sau đây:
- Vẫn còn tư tưởng học đại học và không chịu học các bậc học thấp hơn trong lớp trẻ nên vẫn chưa có nhiều học sinh thi vào các trường hệ dạy nghề và trung học chuyên nghiệp.
- Các trường dạy nghề và bậc học trung học chuyên nghiệp chưa nhiều so với nhu cầu của xã hội hiện nay.
- Cơ sở vật chất cho đào tạo còn nghèo nàn hầu hết là các trang thiết bị máy móc có từ thời bao cấp còn quá lạc hậu so với giai đoạn hiện nay.
- Trình độ chuyên môn của giáo viên giảng dạy còn một số vấn đề như thiếu kinh nghiệm thực tế, nặng về lý thuyết.
- Nạn tiêu cực trong giáo dục còn xảy ra phổ biến.
Không chỉ có vậy mà ngay cả bậc học đại học đào tạo ra lực lượng tri thức cho nền sản xuất xã hội cũng còn rất nhiều yếu kém từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan tương tự như ở trên. Điều này làm cho các công ty nước ngoài cũng như các công ty trong nước khi nhận lao động vào làm việc đều phải thực hiện cái việc mà không ai muốn là đào tạo lại cho lực lượng này. Những lý do trên chính là những trở ngại mà nước ta gặp phải trong thời kì quá độ về lực lượng sản xuất làm xấu đi hình ảnh lao động trong nước. Làm cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hướng đầu tư sang một số nước trong khu vực có lực lượng sản xuất phát triển hơn như: Trung Quốc, Thái lan, Malaysia...
Vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong thời gian qua, đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Tuy nhiên,
Vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong những năm qua, từ sau khi dành độc lập đến nay. Nước ta không ngừng mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng tôn trọng độc lập chủ quền của nhau không can thiệp vào nội bộ của nhau. Song song với nó là những quan hệ hợp tác về kinh tế. Tuy nhiên kinh tế đối ngoại của nước ta cũng còn nhiều yếu kém như:
- Hoạt động ngoại thương còn ít. Chúng ta mới chỉ xuất khẩu những sản phẩm công nghiệp nhẹ như may mặc, gia giầy, các nguyên liệu thô, sản phẩm sơ chế...vv. Nói chung những sản phẩm này có giá trị thấp nhưng lại nhập khẩu những mặt hàng có giá trị cao như: máy móc, dược phẩm, sản phẩm y tế...vv.
- Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ còn phát triển chưa tương sứng với tiềm năng ví dụ như ngành du lịch: chúng ta vẫn còn chưa thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế và thời gian khách lưu chú còn ít các dịch vụ kèm theo trong du lịch còn thiếu nhiều nên việc thu ngoại tệ từ du lịch còn chưa phát triển so với một số nước trong khu vực Đông Nam á.
- Hợp tác khoa học kĩ thuật còn ít, các công ty, tập đoàn nước ngoài còn chưa muốn giúp đỡ Việt Nam phát triển khoa học kĩ thuật, họ còn rất nhiều những vưỡng mắc trong vấn để thủ tục luật pháp...
- Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất thì các công ty Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc gia công xây dựng xí nghiệp cho nước ngoài chưa thể sản xuất ra những mặt hàng có giá trị và hàm lượng khoa học kĩ thuật cao.
4. Vấn đề cải thiện nâng cao đời sống cho nhân dân.
Đời sống của nhân dân ta đã được thay đổi rõ rệt sau hai mưới năm của thời kì đổi mới, thế nhưng vẫn còn nhiều những vấn đề đặt ra như:
Mức thu nhập của người dân Việt Nam so với các nước trong khu vực còn thấp, GDP/người của nước ta trong năm 2005 chỉ là khoảng 550$ trong khi đó Singgapor là hơn 24000$ vào năm 1999, Bruney là hơn 14000$ năm 1999, thái lan 2650$ năm 1999.
Sự chênh lệch về mức sống của người dân giữa các vùng miền, giữa đồng bằng và miền núi, giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn dần cùng với sự phát triểnn của nền kinh tế thị trường
Hệ thống tiền lương, phụ cấp cho cán bộ công nhân viên chức còn ít chưa khuyến khích được sự đóng góp của họ cho xã hội. đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tiêu cực của bộ máy nhà nước.
Phúc lợi xã hội như y tế, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng... chưa được quan tam đúng mức.
II. Giải pháp
Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất
Cần thúc đẩy tăng cường việc đào tạo đội ngũ công nhân thợ lành nghề cũng như đội ngũ khoa học kĩ thuật ở nước ta hiện nay.
Tiếp tục việc xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục mà đảng và nhà nước ta đã trọn lựa. Chúng ta cần đổi mới phương pháp giáo dục từ bậc học phổ thông đên đại học. Tiếp tục phổ cập giáo dục đến những bậc học cao hơn, đặc biệt là vùng núi và các dân tộc thiểu số.
Chúng ta cần đưa thêm nhiều những thiết bị giáo dục cũng như giáo trình hiện đại tiên tiến hoà nhập với thế giới bên ngoài. Xây thêm nhiều các trường dậy nghề trung học chuyên nghiệp và đưa vào các máy móc hiện đại phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay thay thế dần cho những trang thiết bị đã cũ kĩ lạc hậu.
Tiếp tục xây dụng mô hình các trường đại học theo tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao dần chất lượng đào tạo bậc học này ở nước ta, chánh tình trạng lý thuyết suông khi ra ngoài làm việc phải đào tạo lại. Đưa thêm nhiều cán bộ khoa học kĩ thuật trong nước ra nước ngoài học tập tiếp thu khoa học công nghệ. Có những chính sách để thu hút người tài, đặc biệt là những việt kiều chi thức đang công tác trong các trường đại học và trung tâm khoa học của nước ngoài, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay. Thực hiện tổng thể hơn nữa các biện pháp để nâng cao chất lượng lực lượng sản xuất đáp ứng nhu cầu cho một nền sản xuất lớn trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghiã.
Việt nam cần thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế trong giai đoạn hiện nay phát trỉên cho tương xứng với các nước trong khu vực đặc biệt là những doanh nghiệp nhà nước. Các thành phần kinh tế khác cần sự thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa từ nhà nước. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân và tiểu chủ còn phát triển rộng rãi về số lượng nhưng chất lượng chưa cao. Khu vực kinh tế tiểu chủ tập chung nhiều ở nông thôn chưa có sức sản xuất lớn biện pháp kĩ thuật hiện đại nên giá trị kinh tế đem lại còn thấp. N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111830.doc