Tiểu luận Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng của Tư tưởng Hồ Chí Minh

HCM dành ưu tiên cho các nước XHCN anh em. Đồng thời Người cũng hết sức coi trọng, thiết lập mối quan hệ hữu nghị láng giềng với các nước trong khu vực dù có chế độ chính trị khác nhau. Với trí tuệ thiên tài, với tinh thần quốc tế trong sáng, với đức độ khiêm nhường và tháI độ thiện trí, HCM vượt qua mọi trở ngại, từ trong mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp ứng xử sáng tạo phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, phát huy tối đa sức mạnh thời đại và dân tộc đưa cách mạng VN đến thắng lợi trọn vẹn. Chính nhờ biết kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mà dân tôc VN mới có được độc lập như ngày nay.

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5066 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng của Tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng,một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập,toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam. Ông là người đã đưa Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sang tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của VN; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong thực tế, Tư tưởng HCM đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam và của dân tộc VN. Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giảI phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo HCM sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mac-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của VN, HCM nhận thấy phải dựa vào sức mạnh dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải khai thác sức mạnh của thời đại. Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng của Tư tưởng HCM. Để có thể kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, HCM đã chỉ ra rằng : Phải đặt cách mạng giảI phóng VN trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới Thời đại mà HCM sống và hoạt động là thời đại đã chấm dứt sự tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc. Nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, HCM đã sớm tìm ra con đường giải phóng dân tộc, theo con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định : cần thiết phảI có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản ở các nước chính quốc. HCM đã đấu tranh không mệt mỏi để gắn cách mạng VN với cách mạng thế giới. Người đã chỉ ra một trong những nguyên nhân gây ra sự suy yếu của dân tộc phương Đông đó là sự biệt lập. Theo Người “ cách mệnh A Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân A Nam cả ’’ . HCM đã bảo vệ và phát triển quan điểm của Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với thắng lợi của cách mạng vô sản : cách mạng ở các nước phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa. HCM khẳng định, trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng VN có sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của xã hội chủ nghĩa hùng mạnh. Phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng Là nhà yêu nước chân chính, HCM đã triệt để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng HCM suốt đời đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa VN và các nước dân tộc khác. Luận điểm coi chủ nghĩa đế quốc là “ con đỉa hai vòi ’’ đã khẳng định chủ nghĩa xã hội có thể áp dụng ở phương Đông, cách mạng giảI phóng dân tộc ở thuộc địa có thể thắng lợi trước cách mạng giải phóng dân tộc ở chính quốc …. là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin. Đề cao sự giúp đỡ quốc tế, HCM đồng thời cũng nhấn mạnh trách nhiệm của cách mạng VN với cách mạng thế giới. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản đòi hỏi phải đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỉ, chủ nghĩa vô sanh và mọi chủ nghĩa cơ hội khác. Theo HCM, từ đại đoàn kết dân tộc phảI đi đến đại đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế trong sáng. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình HCM tích cực và quan tâm đến phát huy sức mạnh của dân tộc, coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngọai sinh chỉ phát huy được tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy trong đấu tranh cách mạng, HCM luôn nêu cao khẩu hiệu “ tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính ’’, “ muốn người ta giúp cho, thì trước tiên mình phải tự giúp lấy mình đã ’’ . Tự giải phóng là tư tưởng , quan điểm lớn xuyên suốt của tư tưởng HCM. Trong lời kêu gọi gửi tới những anh em ở các nước thuộc địa, có đoạn Người viết : “ công cuộc giải phóng của anh em chỉ có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân anh em ’’. HCM cho rằng, muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại, ngoài sức mạnh cần thiết bên trong, còn phảI có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn mới tranh thủ được sức mạnh thời đại. Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của loài người tiến bộ, nhân dân ta đồng thời tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế. HCM nhiều lần nhắc nhở : “ phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta … Người cùng một hội một thuyền phảI giúp đỡ lẫn nhau ’’. Trong kháng chiến, Tư tưởng HCM đã định hướng cho việc hình thành ba mặt trận : Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đại đoàn kết VN, Lào, Campuchia; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với VN chống đế quốc xâm lược. Có quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ HCM luôn luôn chăm lo, vun đắp cho tình hữu nghị, hợp tác và đoàn kết giữa nhân dân các nước theo tinh thần “ bốn phương vô sản đều là anh em ’’ nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho sự nghiệp cách mạng các dân tộc. Những năm buôn ba tìm đường cứu nước, HCM là người đặt cơ sở đầu tiên cho tình hữu nghị giữa nhân dân VN với nhân dân nhiều nước trên thế giới. Sau khi giành độc lập, Người tuyên bố : “ Chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình ’’. Thực hiện quan điểm đối ngoại hoà bình, hữu nghị, HCM đã thể hiện là một nhà ngoại giao mẫu mực, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược. HCM chủ trương giương cao ngọn cờ hoà bình đoàn kết quốc tế, đồng thời luôn phân biệt rõ ban thù của cách mạng; trân trọng mọi sự giúp đỡ hợp tác chân thành nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống sự chia rẽ, xâm lược. Trong lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946 HCM nêu rõ trong chính sách đối ngoại, VN sẽ tuân thủ nguyên tắc : Đối với Lào và Miên, Viêt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và mong muốn được hợp tác. Đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trên mọi lĩnh vực. HCM dành ưu tiên cho các nước XHCN anh em. Đồng thời Người cũng hết sức coi trọng, thiết lập mối quan hệ hữu nghị láng giềng với các nước trong khu vực dù có chế độ chính trị khác nhau. Với trí tuệ thiên tài, với tinh thần quốc tế trong sáng, với đức độ khiêm nhường và tháI độ thiện trí, HCM vượt qua mọi trở ngại, từ trong mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp ứng xử sáng tạo phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, phát huy tối đa sức mạnh thời đại và dân tộc đưa cách mạng VN đến thắng lợi trọn vẹn. Chính nhờ biết kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mà dân tôc VN mới có được độc lập như ngày nay. Bằng chứng cho sự kết hợp này ta có thể kể đến Cách Mạng Tháng 8 năm 1945. Đầu năm 1945, thấy quân đội Đức bị đánh bại hoàn toàn tại mặt trận châu Âu và ưu thế của quân đội Mỹ ngày càng lên tại mặt trận Thái Bình Dương, Nhật quyết định hoàn toàn khống chế Đông Dương, và chỉ sau một đêm quân Nhật đã thanh toán xong toàn bộ cứ điểm và bắt giam tất cả các quan chức người Pháp. trong khi đó, phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng Sản VN ra chỉ thị “ Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ’’ nhằm phát động phong trào kháng Nhật cứu nước. Tại châu Âu, Đức thất bại và đầu hàng ngày 7/5/1945. Và ngày 6/8 Mỹ ném hai quả bom nguyên tử trên đảo Hiroshma và Nagasaki, ngày 14/8 Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, do đó quân Nhật tại VN dao động và tan rã. Dưới sự cai trị của Nhật, từ 10/1944 đến 5/1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân cướp các kho thóc của Nhật. Đồng thời, một đại hội đại biểu toàn quốc họp trên chiến khu, thành lập Quốc dân Đại hội, tức quốc hội lâm thời. Khi Nhật thất bại, khởi nghĩa nổ ra trên toàn quốc, đó là Cách Mạng Tháng Tám. Cách mạng diễn ra nhanh chóng với sự tham ra của hầu hết quần chúng, Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước trong mười mấy ngày. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch HCM đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và tuyên bố sự khai sinh của một nước mới : VN Dân chủ Cộng hoà. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân VN đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỉ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế gần một nghìn năm, lập nên nước VN Dân chủ Cộng hoà. Đảng Cộng Sản VN từ chỗ hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Đến giai đoạn 1945-1954, với chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời được sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình của nhân dân thế giới kể cả ĐCS và nhân dân lao động Pháp, từng nước đi đến thắng lợi, nhất là ở chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Trong giai đoạn 1954-1975, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh thời đại, bao gồm sức mạnh của hệ thống XHCN, phong trào giảI phóng dân tộc, phong trào hoà bình dân chủ, sức mạnh của Liên Xô, Trung Quốc, khối đại đoàn kết 3 nước Đông Dương, đánh bại đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc. Giai đoạn từ 1975 đến nay, nhất là từ 1986, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, đã phát huy được tiềm năng của đất nước. Đảng và Nhà nước đã đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội, chuyển mạnh sang thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Người đã chỉ ra rằng : “ Muốn cứu nước, giảI phóng dân tộc, không có con đưòng nào khác con đường cách mạng vô sản’’. Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc : PhảI chống chủ nghĩa thực dân, phảI gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc là đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận HCM. Tư tưởng HCM về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là nền tảng chính trị trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm nhuần Tư tưởng HCM, các văn kiện Đảng trong những năm đổi mới đều khẳng định sự cần thiết phảI vận dụng sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại do Người nêu lên. Nghị quyết Đại hội Vll của Đảng 1991 khẳng định : “ Trong điều kiện mới càng phảI coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Trong những năm đổi mới, quan điểm “ Làm bạn với các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” của HCM được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và vận dụng sáng tạo. Văn kiện Đại hội lX của Đảng đã khẳng định : “ Viêt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển”. Trước nguy cơ “ diễn biến hoà bình ’’, trước việc một số thế lực phản động lợi dụng vai trò giúp đỡ viện trợ, đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta cần quán triệt lời dạy của HCM : “ Mỗi một người phảI nhớ rằng có độc lập mới có tự lập, có tự cường mới có tự do. Người còn chỉ rõ: Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập.” Lời dạy này của HCM phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ lX khẳng định : “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Thực tiễn công cuộc đổi mới vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh ’’ ở nước ta trong suốt thời gian qua đã chứng minh rằng : Tư tưởng HCM về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại luôn được Đảng ta quán triệt, vận dụng một cách sáng tạo và đạt được những thành tựu to lớn, tạo thế và lực cho dân tộc ta vững bước vào thế kỉ XXI. Như vậy, chính nhờ việc kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mà HCM và Đảng đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong thời đại ngày nay, chúng ta vẫn cần phải biết cách kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để có thể phát huy tối đa những lợi thế mà mình có, đồng thời mở rộng hợp tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là 1 bộ phận quan trọng của tư tưởng HCM.DOC
Tài liệu liên quan