Từ giữa thập kỷ 1980 trở về trước với đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ nên biên chế và kinh phí hành chính trong các cơ quan Nhà nước do Chính phủ quản lý tập trung, thống nhất. Biên chế cũng như kinh phí hành chính là các chỉ tiêu pháp lệnh và được quản lý hết sức chặt chẽ, từ đó dẫn đến tình trạng “xin –cho” không phát huy được tính chủ động sáng tạo của các tổ chức cá nhân, cũng như tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ vào ngân sách Nhà nước, dẫn đến hiệu quả hoạt động của bộ máy không cao, thu nhập của cán bộ, công chức thấp không đủ trang trải sinh hoạt
Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà nước” Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 230/1999/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 1999 về việc thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với một số cơ quan thuộc thành phố Hồ Chí Minh là các Phòng, Ban (trừ các tổ chức sự nghiệp có thu trực thuộc các quận, huyện) của các Quân 1, 3.5. 11; các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi; các Sở Tư Pháp, Sở Giao thông- Công chính, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội. Có thể nói đây là văn bản pháp luật đầu tiên thể hiện chủ trương khoán chi hành chính, xác định những nội dung cơ bản của khoán chi hành chính như đối tượng, nội dung, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan thí điểm thực hiện khoán chi hành chính.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2906 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Khả năng áp dụng khoán chi hành chính ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. NỘI DUNG CHẾ ĐỘ KHOÁN CHI HÀNH CHÍNH
1 Khái niệm khoán chi, chế độ khoán chi hành chính.
Khoán trong “khoán trắng” được hiểu là giao phó cho người khác mà không quan tâm săn sóc gì đến.
Chi được hiểu là bỏ tiền ra dùng vào việc gì.
Hành chính được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước hết hành chính được hiểu là một lĩnh vực hoạt động của Chính phủ thực thi quyền hành pháp, thi hành những chính sách và pháp luật của Nhà nước. Với nghĩa thông thường, hành chính là hoạt động quản lí chuyên nghiệp của Nhà nước đối với xã hội, hoạt động đó và sự quản lí đó nằm trong phạm vi quyền hành pháp được thực hiện bởi một bộ máy quan chức chuyên nghiệp. Một mặt nó là một bộ phận của quyền lực chính trị, có mối liên hệ mật thiết đối với quyền lực chính trị, quyền lập pháp và quyền xét xử phục vụ chính trị
Có thể hiểu khoán chi hành chính thực chất là hoạt động chi ngân sách Nhà nước cho các đơn vi hành chính theo phương thức giao khoán, cấp cho các đơn vi một khoản kinh phí cụ thể và trao quyền chủ động sử dụng khoản kinh phí đó vào các mục đích khác nhau phù hợp với các hoạt động của cơ quan đơn vị hành chính.
Chế độ khoán chi hành chính là tổng hợp các quy định của pháp luật về việc cấp phát, sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách sách Nhà nước cho các đơn vị hành chính.
2. Nội dung của chế độ khoán chi hành chính.
Nội dung của chế độ khoán chi hành chính được quy định cụ thể trong hai văn bản: Nghị định số 130/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước, và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tái chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Hai văn bản pháp luật này đã quy định những nội dung cơ bản nhất về chế độ khoán chi hành chính Nhà nước thông qua các quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính Nhà nước đối với các cơ quan Nhà nước và các đơn sị sự nghiệp ngoài công lập. Theo đó, cơ chế khoán chi hành chính có một số nội dung cơ bản sau:
2.1 Khoán chi hành chính đối với các cơ quan Nhà nước.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước đòi hỏi phải có các nguồn tài chính đảm bảo để duy trì hoạt động bình thường của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao. Do vậy, ngân sách Nhà nước phải cấp phát kinh phí cho các cơ quan đó hoạt động, việc cấp phát kinh phí đó có thể được thực hiện với các phương thức khác nhau tùy từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội. Hiện này theo quy định tại Nghị định của Chính phủ số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 thì cơ chế khoán kinh phí cho các cơ quan Nhà nước có một số nội dung sau:
2.1.1 Đối tượng khoán chi
Theo quy định tại 1 Nghị định trên thì đối tượng thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính bao gồm: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Thuộc Chính phủ; Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng Ủy ban nhân dân; các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trưc thuộc Trung ương; Văn phòng Hội đồng nhân dân, Văn phòng Ủy ban nhân dân; các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Như vậy, có thể thấy rằng, đối tượng phải thực hiện khoán chi hành chính chủ yếu là các cơ quan hành chính Nhà nước từ cấp huyện trở lên, các cơ quan này phải có những điều kiện do pháp luật quy định đó là có tài khoản và con dấu riêng thì mới thực hiện cơ chế tự chủ trong quản lí và sử dụng tài chính.
2.1.2 Nội dung thực hiện khoán chi.
Nguồn kinh phí quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước bao gồm: Ngân sách Nhà nước cấp, các khoản phí, lệ phí được để lại theo chế độ quy định, các khoản thu hợp pháp khác, tuy nhiên không phải tất cả các khoản kinh phí này đều do các cơ quan tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc sử dụng và quản lí. Việc khoán chi chỉ được áp dụng cho các hoạt động sau đây:
Các khoản chi cho thanh toán cá nhân: tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán khác cho cá nhân quy định;
Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn: thanh toán dịch vụ công cộng. vật tư văn phòng, thông tin tuyên truyền, liên lạc, hội nghị, công tác phí trong nước, chi cho các đoàn đi công tác nước ngoài và đón các đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam (phần bố trí trong định mức chi thường xuyên) chi phí thuê mướn, chi nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành, mua sắm, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định
Các khoản chi thường xuyên khác.
Như vậy, các khoản chi cho đầu tư phát triển như chi mua sắm, chi sửa chữa tài sản cố định; chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức…không thuộc nội dung cho khoán chi hành chính. Nói cách khác, Ngân sách NHà nước chỉ giao cho các cơ quan Nhà nước được tự chủ trong các việc sử dụng và quản lí là các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định cao, thể hiện tính chất tiêu dùng, nội dung cơ cấu chi mức độ chi gắn liền với cơ cầu tổ chức bộ máy Nhà nước và sự lựa chọn của Nhà nước trong việc cung cấp các hàng hóa công cộng.
2.1.3 căn cứ định mức khoán chi
- Hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ sử dụng kinh phí thường xuyên của Ngân sách Nhà nước
- tình hình thực tế sử dụng kinh phí của cơ quan trong một số năm (hiện nay là 3 năm) liền kế trước năm thực hiện khoán có xem xét các yếu tố tăng giảm đột biến
- Kinh phí quản lí hành chính Nhà nước được giao được xem xét điều chỉnh trong các trường hợp như: Do điều chỉnh biên chế hành chính theo quyết định của cơ cấp có thẩm quyền; điều chính nhiệm vụ theo quyết định của cấp có thẩm quyền; Do Nhà nước thay đổi chính sách tiền lương, thay đổi các định mức phân bổ dự toán ngân sách Nhà nước, điều chỉnh tỷ lệ phân bổ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực quản lý hành chính.
2.1.4 Sử dụng nguồn kinh phí tiết kiệm được.
Theo khoản 1 Điều 8 Nghị định 130/2004/NĐ-CP thì kinh phí tiết kiệm được được xác định là phần chênh lệch giữa số chi thực tế và dự toán kinh phí trong năm ngân sách trong trường hợp số chi thực tế nhỏ hơn dự toán kinh phí được giao để thực hiện chế độ tự chủ.
Kinh phí tiết kiệm được được sử dụng vào các mục đích: bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, chi khen thưởng và phúc lợi. lập quỹ dự phòng hoặc chuyển sang năm sau tiếp tục sử dụng.
2.1.5 Trách nhiệm của cơ quan được khoán chi hành chính.
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 130/2005/NĐ-CP thì thủ trường cơ quan được khoán chi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình trong việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí được giao, thực hiện các biện pháp tiết kiệm, thực hiện quy chế dân chủ, công khai tài chính.
2. Khoán chi hành chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
2.1 Đối tượng thực hiện khoán chi hành chính.
Khoán chi hành chính không chỉ được thực hiện đối với các cơ quan Nhà nước mà còn được thực hiện trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Đơn vi sự nghiệp công lập là những đơn vị do Nhà nước thành lập hoạt động có thu thực hiện cung cấp các dịch vụ công cộng và các dịch vụ khác nhằm duy trì hoạt động bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Các đơn vị này hoạt động trong các lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường, văn học nghệ thuận, thể dục thể tao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ, việc làm….
Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp được phân loại để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính như sau:
Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động)
Đơn vi có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên, phần còn lại được ngân sách Nhà nước cấp (đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động)
Đơn vi có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do ngân sách Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động (đơn vị sự nghiệp do ngân sách Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động).
Căn cứ vào sự phân loại các nguồn thu nói trên mà có các quy tắc pháp lí khác nhau điều chỉnh chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn tài chính của các đơn vị đó trong đó có việc thực hiện tự chủ khoản kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.
2.2.1. Khoán chi hành chính đối với các đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo nguồn chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, nguồn thu tài chính của các đơn vị này được hình thành từ ngân sách Nhà nước cấp, thu từ hoạt động sự nghiệp, từ nguồn viện trợ, quà biểu, tặng, cho theo quy định của pháp luật, ngoài ra còn có nguồn vốn vay, vốn liên doanh liên kết của các tổ chức cá nhân.
Căn cứ nguồn thu cũng như nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các khoản chi thường xuyên bao gồm: “chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao; chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí; chi cho các hoạt động dịch vụ (kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả tiền lãi vay theo quy định của pháp luật, thủ trưởng các đơn vị trên được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. Dựa vào tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc.
Hàng năm, sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác theo quy định, phần chênh lệch thu lơn hơn chi, các đơn vị được sử dung để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, trả thu nhập tăng thêm cho người lao động, lập các Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập…theo các quy định tại Điều 19, Điều 20 của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP.
2.2.2 Khoán chi hành chính đối với các đơn vị sự nghiệp do Ngân sách Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động.
Khác với các đơn vị tự đảm bảo nguồn chi phí hoạt động và các đơn vị sự nghiệp đảm bảo một phần nguồn chi phí hoạt động, nguồn kinh phí chủ yếu của các đơn vi này do Ngân sách Nhà nước cấp. Việc trao quyền tự chủ sử dụng các nguồn tài chính đối với các đơn vị này cũng tương tự đối với các đơn vị trên tuy nhiên điểm khác biệt đó là trình tự sử dụng khoản chênh lệnh thu chi. Nếu như các đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động và đảm bảo một phần chi phí hoạt động, phần chênh lệnh thu chi trong năm được ưu tiên cho việc sử dụng để lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, sau đó đến việc trả lương cho người lao đông…và lập các quỹ khác thì ở các đơn vị sự nghiệp do Ngân sách Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí, khoản chênh lệnh đó được ưu tiên sử dụng để trả lương cho người lao động, chi khen thưởng cho tập thể cá nhân, chi phúc lợi trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động…chi tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị, ngoài ra có thể lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Nói cách khác nếu như khoản chệnh lệnh thu chi đối với các đơn vị tự đảm bảo, đảm bảo một phần nguồn chi phí hoạt động thì được sử dụng chủ yếu để lập các Quỹ nhằm phát triển, nâng cao hoạt động sự nghiệp… thì ở các đơn vị sự nghiệp do Ngân sách Nhà nước đảm bảo hoạt động thì mức kinh phí tiết kiệm được phục vụ chủ yếu cho chính những người lao động làm việc trong đơn vị đó.
Như vậy, có thể thấy rằng, việc khoán chi không chỉ áp dụng đối với các cơ quan Nhà nước nói chung mà còn được áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Do tính chất hoạt động, chức năng nhiệm vụ khác nhau mà quy chế khoán, việc sử dụng khoán kinh phí do Nhà nước khoán đối với hai tổ chức này cũng có điểm khác biệt tuy nhiên đều hướng tới mục tiêu đó là đảm bảo hiệu quả hoạt động, thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức, nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan đơn vi, tiết kiệm chi phí quản lí, thực hiện dân chủ và công khai.
II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG KHOÁN CHI HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Thực trạng thực hiện khoán chi hành chính trong thời gian vừa qua.
Thực hiện khoán chi hành chính trước khi có Nghị định 130/2005/NĐ-CP của Chính Phủ ngày tháng năm 2005
Từ giữa thập kỷ 1980 trở về trước với đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ nên biên chế và kinh phí hành chính trong các cơ quan Nhà nước do Chính phủ quản lý tập trung, thống nhất. Biên chế cũng như kinh phí hành chính là các chỉ tiêu pháp lệnh và được quản lý hết sức chặt chẽ, từ đó dẫn đến tình trạng “xin –cho” không phát huy được tính chủ động sáng tạo của các tổ chức cá nhân, cũng như tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ vào ngân sách Nhà nước, dẫn đến hiệu quả hoạt động của bộ máy không cao, thu nhập của cán bộ, công chức thấp không đủ trang trải sinh hoạt…
Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà nước” Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 230/1999/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 1999 về việc thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với một số cơ quan thuộc thành phố Hồ Chí Minh là các Phòng, Ban (trừ các tổ chức sự nghiệp có thu trực thuộc các quận, huyện) của các Quân 1, 3.5. 11; các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi; các Sở Tư Pháp, Sở Giao thông- Công chính, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội. Có thể nói đây là văn bản pháp luật đầu tiên thể hiện chủ trương khoán chi hành chính, xác định những nội dung cơ bản của khoán chi hành chính như đối tượng, nội dung, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan thí điểm thực hiện khoán chi hành chính.
Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí ở các đơn đã làm đầu tiên, kết quả thực hiện thí điểm của Chính Phủ ở Thành phố Hồ Chí Minh và căn cứ Chương trình cải cách hành chính của Chính phủ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 192/2001/QĐ_TTg ngày 17 tháng 12 năm 2001 về mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đơi với các cơ quan hành chính Nhà nước. Với văn bản này, đã mở rộng đối tượng thực hiện khoán chi hành chính trên thực tế, xác định những vấn đề cơ bản trong khoán chi hành chính như mục tiêu, nguyên tắc, nội dung và mức giao khoán, thời hạn giao khoán, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan thực hiện khoán kinh phí. Cùng với Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2001 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định cho phép một số đơn vị thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí hoạt động bao gồm Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính và Tổng cục hải quan.
Trong bốn năm thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lí hành chính đối với các cơ quan Nhà nước, đã có 53/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ba Bộ triển khai thí điểm khoán. Các địa phương đã giao khoán cho 682 cơ quan hành chính trực thuộc, các Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải và Bộ Tài chính đã thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí hành chính cho trên 160 đơn vị hành chính trực thuộc. Việc thực hiện thí điểm đã đạt được một số kết quả như:
Giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan trong việc sử dụng kinh phí tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao năng suất hiệu quả công việc,
Tạo điều kiện cho tất cả các công chức tham gia giám sát quá trình thực hiện cơ chế khoán theo đề án đã được duyệt, thúc đẩy sử dụng kinh phí tiết kiệm.
Tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
Một ví dụ điển hình là thành phố Hồ Chí Minh- một trong những địa phương thực hiện thí điểm khoán chi hành chính đầu tiên trong cả nước, số kinh phí tiết kiệm được trong ba năm là 16.590 triệu đồng (24,85% định mức khoán) trong đó 12.000 triệu đồng do việc tiết kiệm chi phí quản lí hành chính, nhờ vậy mà thu nhập của người lao động năm 2002 tăng bình quân 241.000 đồng/người/tháng; 507.000đồng/người/tháng.
Thực hiện khoán chi hành chính trong giai đoạn từ khi có Nghị định của Chính Phủ số 130/2005/NĐ-CP đến nay.
Từ kết quả của việc thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí trong giai đoạn trước, ngày 17 tháng 10 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước, đây là văn bản pháp luật toàn diện và hệ thống ghi nhận các vấn đề liên quan đến hoạt động khoán chi hành chính, làm cơ sở pháp lí hướng dẫn cho các cơ quan thực hiện hoạt động này. Cùng với Nghị định 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành các quyết định cho phép một số đơn vị thực hiện cơ chế khoán. Có thể kể đến các Quyết định như: Quyết định số 107/2005/QĐ-TTg ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chỉnh phủ về việc kí điểm khoán biên chế và kinh phí hoạt động của Tổng cục Thuế giai đoạn 2005-2007, Quyết định số 109/2005/QĐ-TTg ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chỉnh phủ về việc thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí hoạt động của Tổng cục Hải quan giai đoạn 2005-2007…
Như vậy, sau quá trình thí điểm khoán chi hành chính ở một một số địa phương, thì cơ chế khoán chi đã được áp dụng phổ biến trên khắp các tỉnh thành phố, các cấp, các ngành khác nhau. Hầu hết, các tỉnh thành phố trực thuộc đã triển khai việc thực hiện khoán chi hành chính đối với các đơn vị cấp dưới, đơn vị quản lí trực thuộc, các đơn vị sự nghiệp công lập điển hình là Thành Phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Bến Tre, Đồng Tháp….
Có thể xem xét kết quả thực hiện khoán chi hành chính ở tỉnh Đồng Tháp thông qua Báo cáo tổng kết thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010, trong đó một trong những nội dung quan trọng của cải cách hành chính là hoạt động cải cách tài chính công được thực hiện theo Nghị định của Chính phủ số 130/2005/NĐ-CP và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP: tính đến cuối năm 2010, đã có 55/58 sở, ban, ngành (đơn vị dự toán cấp I và dự toán cấp II) đạt 94,8% số đơn vị thực hiện khoán chi hành chính, 177/188 đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ để đảm bảo kinh phí hoạt động, trong đó có 4 đơn vị (2,2%) tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động, 109 đơn vị (61,2%) tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động, số đơn vị do ngân sách đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động là 64 đơn vị (36,6%).
Một số vấn đề khi thực hiện khoán chi hành chính.
2.1 Những hiệu quả tích khi thực hiện cơ chế khoán chi hành chính
Việc thay đổi cơ chế quản lí tài chính đối với các cơ quan Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp có thu theo hướng giao quyền chủ động trong việc sử dụng, quản lí nguồn kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp đã chấm dứt cơ chế “xin-cho”, như thời kỳ nền kinh tế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Việc áp dụng cơ chế này trong thực tiễn một mặt phát huy được tính chủ động sáng tạo của các đơn vi, tổ chức, mang lại một số những hiệu quả tích cực sau.
Trước hết đối với hoạt động của chính các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp: Từ việc phải tuân theo các mệnh lệnh của cấp trên trong từng hoạt chi thường xuyên mang tính liên tục, ổn định, các đơn vị thực hiện cơ chế khoán chi hành chính đã được chủ động sử dụng, quản lý nguồn kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp tùy theo tình hình, điều kiện thực tế, yêu cầu từ nhiệm vụ quản lí Nhà nước đặt ra. Từ đó mà phát huy được tính sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ hai, việc thực hiện khoán chi hành chính tạo ra sự thay đổi thái độ làm việc, tinh thần và ý thức, trách nhiệm của đội ngũ công chức đối với công việc và ngân sách được giao. Quy chế chi tiêu nội bộ được xây dựng trên cơ sở ý kiến đóng góp của tất cả các công chức trong đơn vị. Tất cả các khoản thu và nội dung chi được công khai chi tiết, góp phần kiểm soát chi tiêu một cách hợp lý và thúc đẩy thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong việc sử dụng ngân sách, tài sản Nhà nước.
Thứ ba, sử dụng chi tiêu hợp lí khoa học và hệ thống, tạo ra nguồn kinh phí tiết kiệm để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước, người lao động trong các đơn vị sự nghiệp. Ví dụ, ở Quảng Ngãi, nhờ áp dụng cơ chế khoán chi, mà từ năm 2007, mức thu nhập của các cán bộ công chức làm việc ở các Sở Giao thông vận tải, Xây dựng, Tài chính,…đã tăng từ 5 đến 10 triệu đông/năm.
2.2 Những điểm bất cập khi áp dụng cơ chế khoán chi hành chính
Mặc đù đạt được những hiệu quả rất cao trong hoạt động bộ máy Nhà nước cũng như mang lại lợi ích cho người lao động, nhưng cơ chế khoán chi hành chính còn tồn tại những điểm bất cập sau:
Một là xuất hiện những vướng mắc trong các quy chế pháp lý:Ví dụ như quy định tại Nghị định 130/2004/NĐ-CP của Chính phủ chỉ đề cập đến việc giao quyền tự chủ về sử dụng biên chế, kinh phí quản lý hành chính đến cấp xã, phường thị trấn nếu địa phương xét thấy khả năng thực hiện được. Như vậy với quy định này thì cơ quan hành chính cấp xã không bắt buộc là đối tượng của cơ chế khoán chi hành chính, việc xác định khả năng thực hiện được dựa trên các yếu tố nào chưa được quy định rõ trong các văn bản pháp luật.
Hai là, trong cơ chế tổ chức thực hiện: - Bản chất của Nghị định 130/NĐ-CP là xóa bỏ cơ chế “xin - cho” trong cấp phát kinh phí hành chính, tăng thu nhập, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3 yêu cầu này phải song hành trong quá trình thực hiện nghị định, mục đích là để cải cách tài chính công, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy hành chính. Tuy nhiên khi triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế, kinh phí quản lý hành chính thì nảy sinh tình trạng vì mong muốn tiết kiệm chi càng nhiều càng tốt, để có thể chi tăng thêm thu nhập cho CBCCVC, nên thủ trưởng đơn vị không đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động hành chính, cắt giảm triệt để chi tiêu nội bộ, dẫn đến ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy
Nếu không xem xét đầy đủ các yếu tố thực tiễn, chức năng nhiệm vụ, hoạt động của từng cơ quan, tổ chức thì sẽ dẫn đến tình trạng khoán không đủ chi gây ảnh hưởng hiệu quả hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Cơ chế tự chủ cho phép các cơ quan nhà nước được quyết định việc chi tiêu của mình, nhưng các cơ quan này phải tuân thủ các định mức được ban hành trong rất nhiều văn bản của Nhà nước (về nguyên tắc chỉ được bằng hoặc thấp hơn định mức chi tiêu hiện hành). Trong bối cảnh tình hình giá cả thị trường luôn biến động hàng ngày thì không ít (nếu không nói là phần lớn) định mức chi hiện hành nhanh chóng trở nên lạc hậu, thấp hơn rất nhiều so với giá cả thị trường.
Khả năng áp dụng phương thức khoán chi hành chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Các điều kiện áp dụng phương thức khoán chi hành chính.
Sự cần thiết phải áp dụng phương thức khoán chi hành chính.
Áp dụng khoán chi hành chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích nội dung chế độ khoán hành chính nhà nước ta hiện nay.doc