Tiểu luận Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam

MỤC LỤC

A. Đặt vấn đề 1

B. Nội dung 3

PhầnI: Nội dung lý luận 3

I. Khái niệm phủ định biện chứng: 3

1. Định nghĩa phủ định biện chứng. 3

2. Đặc điểm của phủ định biện chứng. 3

3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình để thấy nguyên nhân, động lực của sự phát triển là gì. 5

II. Tính đặc thù của phủ định biện chứng với đổi mới trong lĩnh vực kinh tế xã hội. 7

Phần II: Phép phủ định biện chứng đối với quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam 8

I. Tính khách quan tất yếu của sự ra đời nền kinh tế hh có sự quản lý của Nhà nước, phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 8

1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự cung tự cấp ở Việt Nam. 8

2. Sự ra đời của nền kinh tế hh nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan. 9

2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam. 12

3. Những thành tựu của công cuộc đổi mới. 14

Phần III: Xu hướng của nền kinh tế và một số giải pháp 17

Kết luận 20

Tài liệu tham khảo 21

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7529 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà lại sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mất. Không có cái mới nào lại ra đời từ hư vô, nhờ việc giữ lại nhân tố tích cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình. Cái quá khứ không biến đổi đi mà không để lại một dấu vết nào trong dòng chảy vô tận của thời gian. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa trong đòi sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái phủ đinh được giữ lại, nó vẫn được duy trì dưới lớp lọc bỏ. Thực chất của sự phát triển là sự biến đổi, mà gia đoạn sau còn bảo tồn tất cả những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước chẳng hạn trong khi phủ định. Chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ lỗi thời chủ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, song, những yếu tố được giữ lại đó cũng phải được cải tạo, đựơc biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố nội tại của CNXH. Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản tích cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại có lúc có nơi lại phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho phủ hợp. 3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình để thấy nguyên nhân, động lực của sự phát triển là gì. Đối lập với quan điểm biện chứng, những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự vận động, sự phát triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình không thấy được tiền đề của sự nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến kế thừa, thì họ lại hiểu kế thừa một cách nguyên xi, không phê phán, không cải tiến cải tạo chúng hoặc lắp ghép các yếu tố của cái cũ vào cái mới một cách đơn giản, máy móc. Những người thuộc “Phái văn hoá vô sản” ở Nga đầu những năm cách mạng có thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn hoá vô sản không có liên quan gì với nền văn hoá trước họ chủ trương xây dựng lại từ đầu nền văn hoá mới của giai cấp vô sản. Đây là quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự phát triển tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lương, không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính muôn vẽ về chất bất biến trong toàn bộ quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển chỉ là thay đổi số lượng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy định mới về chất, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín. Quan điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp. Như vậy, việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ để phân biệt một quan điểm biện chứng với một quan điểm siêu hình. Điều chủ yếu để phân định hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn ra như thế nào. trong quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Theo quan điểm đó, phát triển là một trường hộp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoay trôn ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Với đặc điểm như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái cũ, mà còn là gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định. Phủ định biện chứng trở thành vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển. II. Tính đặc thù của phủ định biện chứng với đổi mới trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Nền kinh tế xã hội nào cũng có những khuyết tật, những mâu thuẫn tồn tại trong lòng nó, và một xã hội mà luôn giữ một kiểu tổ chức sản xuất, phương thức sản xuất thì chắc chắn sẽ không thể tiến lên được. Vì vậy nền sản xuất phải luôn được đổi mới phù hợp với phép phủ định biện chứng. Nền sản xuất lỗi thời, không còn năng động nữa sẽ được thay thế bởi nền sản xuất tiến bộ, năng động và phát triển hơn phù hợp với thời đại. Công cụ sản xuất bằng cơ khí ra đời thay thế công cụ sản xuất bằng lao động thủ công là một tất yếu. Đến lượt nó sản xuất tự đồng hoá ra đời thay thế công cụ bằng cơ khí của quá trình sản xuất cũng là một tất yếu. Nguyên nhân của quá trình thay thế này là do những động lực tự thân của nền sản xuất xã hội quy định, do những nhu cầu không ngừng biến đổi và phát triển của con người. Sự thay thế đó không phải là vứt bỏ, phủ định sạch trơn phương thức sản xuất cũ mà chúng vẫn đựơc giữ lại, tồn tại song song với phương thức sản xuất mới và trở thành các ngành, các phương thức sản xuất truyền thống đôi khi chúng rất cần đối với nền kinh tế của một số nước. Phần II: Phép phủ định biện chứng đối với quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam I. Tính khách quan tất yếu của sự ra đời nền kinh tế hh có sự quản lý của Nhà nước, phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự cung tự cấp ở Việt Nam. Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nổ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác mô hình kinh tế kế hoạch hoá đã phát huy đựơc tính ưu việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phủ định, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức độ cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến. Nhưng sai giải phóng Miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng kinh tế đã có nhiều thay đỏi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hh. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông tiền tệ, giá cả bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông tiền tệ , giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự bảo hộ của Nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính sách bù lỗ của Nhà nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào. Đồng thời do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phủ hợp của cơ chế quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nền, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liều với lạm phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thoái nền kinh tế ở nước ta là do đã áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới. Đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. 2. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan. Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng VI (1986) đã chủ chương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hôi Đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại. Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ được thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhưng hiệu quả đạt được của nèn sản xuất xã hội rất thấp sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng xã hội tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn làm vào cả vón vay nước ngoài. Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất mà nó còn sản sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất. Thứ ba, xét về những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có rất nhêìu ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai. Thực tế thị trường đã hình thành và phát triển được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vươn tới những vùng hẻo lánh xa xôi và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà nước còn tất thấp, chưa có sự quản lý chặt chẽ sự hệ thống và liên kết các thị trường một cách đồng bộ theo pháp luật. Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gủi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá quốc tế. Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiền lực kinh tế. Mục đích của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình đạt tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền. Vì vậy chúng cần phải đổi mới để phát triển kinh tế cũng như những mặt xã hội khác để khẳng định vị trí của Đảng của dân tộc mình trên trường quốc tế. Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và bản thân đời sống kinh tế- xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác. những tình trạng và hiện tượng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng, vì vậy, sự tác động của Nhà nước một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình” của thị trường, cơ chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950-1979 và đã có tác dụng đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song cơ chế này đã được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung ở mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi thay đổi, đồng thời nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu khách quan ra đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần thứ IV của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới, điều chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII Đảng khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ”. 2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam. Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, Nhà nước ta đã xây dựng mọt nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không chú ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự phát triển kinh tế. Do đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đừi mang tính khách quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà là một sự chuyển đổi có tính chất kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sửa đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau: Trước hết đó là việc công nhấn sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác bên cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân..... Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ những mặt yếu kém của nền kinh tế cũ nhưng nền kinh tế mới đã biết kế thừa những yếu tố tích cực của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn diện tốt hơn. Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vẫn giữ vai trò chủ đạo trong đường lối phát triển kinh tế. Những bước đổi mới quan trọng của Đảng của Nhà nước là việc thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác như kinh tế ư bản tư nhân. Với sự chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. bên cạnh những ngành nghề mới ra đời và phát triển đó, những ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, địa phương, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó được phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn của sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành quốc tế. Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thhể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản Nhà nước, Công ty cổ phần. Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại. Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới ở nước ta còn được thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy công cụ kế hoạch hoá một cách linh hoạt bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu hình”. Nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý của Nhà nước đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tôn trọng những quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... nhưng không phải để cho những quy luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở đây có sự can thiệp của Nhà nước. Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể kinh tế hoạt động kinh doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể quản lý, bằng những chính sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động của thị trường. Nhà nước không còn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu mà vấn đề này sẽ được thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết trên cơ sở đưa ra các kế hoạch dài hạn. Như vậy nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của Nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò chủ thể kinh tế của các Công ty, Xí nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của Nhà nước trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại vịn vào việc xây dựng và phát triển vận động của các quy luật khách quan mà lại bỏ vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước cũng không đúng. ở Việt Nam hiện nay để xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tức là một mặt phải tiếp tục củng cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, mặt khác phải không ngừng phát huy vai trò của Nhà nước, của Đảng, luôn bảo đảm niềm tin của người lao động. Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Việc bổ sung pháp luật tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá, về giá, tỷ giá, tài chính, Ngân hàng, lao động, tiền công, đất đai... đang tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. 3. Những thành tựu của công cuộc đổi mới. Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã đạt giải quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như: - Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao động, chuyên môn sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ. - Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng .... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển gắn sản xuất với thị trường. - Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giai lưu kinh tế trong nước và hoà nhập nền kinh tế thế giới. - Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép kín với kìm hãm sự phát triển cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thực hiện với hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta sau công cuộc đổi mới không những vững mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục nhiều mặt đình đốn, suy thoái, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục, điển hình là: Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Đến nay lạm phát của nước ta chỉ còn 0,1%. Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2%. Sản xuất Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, vấn đề lương thực được giải quyết tốt, sản lượng lương thực năm 1993 xấp xỉ 25 triệu tấn, vượt mức đề ra trong năm 1995. Hiện nay, nước ta đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13% cao hơn chỉ tiêu đề ra cho kế hoạch. Năng lực sản xuất một số ngành và sản phẩm quan trọng như: điện, dầu, dầu thô, thép, xi măng .... được tăng thêm. Hệ thống thông tin liên lạc mở rộng nhanh với thiết bị công nghệ mới. Các ngành xây dựng, vận tải, thương nghiệp dịch vụ khác đều phát triển. Cơ cấu kinh tế đang biến đổi, một số ngành sản xuất kinh doanh mới xuất hiện. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá. Đã khắc phục được hầu hết hậu quả do thị trường truyền thống bị giảm sút đột ngột: mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàng mới, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 20%. Tính đến năm 1993 đã cấp 836 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 7,5 tỷ USD nhưng tới năm 1996 đã cấp 16454 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đã là 21,8 tỷ USD, bước đầu thu hút thêm viện trợ phát triển và vốn vay ưu đãi từ các Chính phủ: lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc gia. Tuy vậy theo nhận định của Đảng ta thì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang trong gia đoạn hình thành, các doanh nghiệp Nhà nước bước đầu được sắp xếp và đăng ký lại. Đã giảm bớt một số lượng lớn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Số đơn vị kinh doanh có hiệu quả tăng lên. Khu vực kinh tế Nhà nước nhìn chung vẫn phát triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc doanh, tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên 39,9% năm 1992. Hợp tác xã Nông nghiệp có phương hướng đổi mới rõ hơn kể từ đại hội Trung ương Vi vai trò tự chủ của các hộ nông dân được khẳng định. Một số loại hình kinh tế hợp tác xã mới xuất hiện. Luật đất đai chính thức giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho dân. Đã giúp kinh tế hộ nông dân có thêm động lực phát triển mới. Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân phát triển đáng kể. Doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn đầu tư thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam.doc