Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.
Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân c ư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 45952 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích lũy và phát triển trong Lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ rất sớm, trong tư tưởng chính trị - Pháp lý thời cổ đại đã chứa đựng nhiều nhân tố của nhà nước pháp quyền. Đến thời kỳ cách mạng Dân chủ tư sản, những tư tưởng quý báu đó đã được kế thừa, phát triển để trở thành học thuyết về nhà nước pháp quyền. Học thuyết đó đã được áp dụng ở các mức độ, phạm vi khác nhau ở nhiều nước tư sản. Ngày nay, ở Việt Nam học thuyết đó đến lượt mình lại tiếp tục được bổ sung, phát triển cho phù hợp với những đổi thay sâu sắc của xã hội hiện đại. Sau đây bước đầu chúng ta đi tìm hiểu về khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khái niệm pháp quyền và nhà nước pháp quyền.
Một trong những đặc trưng của nhà nước là mối liên hệ mật thiết với pháp quyền. Pháp quyền là hình thức điều tiết hành vi của con người, là tổng thể những chuẩn mực hành vi do nhà nước đặt ra và chuẩn y nhằm duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội và những trật tự khác có trong xã hội, đó là ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ không có pháp quyền. Trật tự đời sống xã hội thời kỳ này được duy trì bằng sức mạnh của tập quán, truyền thống, uy tín, tinh thần của trưởng lão thị tộc đại diện cho lợi ích chung của các thành viên. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, những lợi ích đối lập nhau xuất hiện, tập quán, truyền thống, uy tín không thể điều tiết được hành vi của con người, mà chỉ có pháp quyền. Xã hội có giai cấp không thể tồn tại, nếu không thể chế hoá bằng pháp quyền các mối quan hệ sở hữu, gia đình, hôn nhân và các quan hệ khác. Thông qua pháp quyền được trình bày dưới hình thức luật, nhà nước thực hiện chức năng lập pháp.
Lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay có bốn kiểu nhà nước có liên hệ mật thiết với pháp quyền là nô lệ, phong kiến, tư sản và vô sản. nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là một kiểu nhà nước gắn liền với một giai cấp như nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa, mà là một hình thức tổ chức nhà nước, một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức quyền lực để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao. Nói một cách khái quát là, hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền bao gồm: Trước hết, sự đảm bảo tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung của nhân dân và lợi ích chung của xã hội. Thứ hai, Nhà nước thực hiện và bảo vệ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của công dân. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. Công dân được tự do làm những gì pháp luật không cấm. Thứ ba, nhà nước và nhân dân bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau, có quan hệ mật thiết và ràng buộc lẫn nhau về quyền và nghĩa vụ do pháp luật điều chỉnh. Bảo đảm đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình và công dân chịu trách nhiệm trước Nhà nước về những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Thứ tư, Nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực thích hợp để thực hiện hữu hiệu việc xây dựng hệ thống pháp luật, giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh.
Hiện nay trên thế giới, dựa trên các nguyên tắc và các đặc trưng của nhà nước pháp quyền, một quốc gia, dân tộc xây dựng và phân công quyền lực nhà nước riêng của mình xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử và truyền thống dân tộc. Không thể có một “mô hình kiểu mẫu” duy nhất của nhà nước pháp quyền, bắt buộc các dân tộc phải tuân theo.
2. Quan niệm về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ nhà nước pháp quyền mới xuất hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước và được nhắc đến nhiều ở Việt Nam từ sau công cuộc Đổi mới, song không phải đến lúc đó ý tưởng về nhà nước pháp quyền mới bắt đầu xuất hiện ở nước ta. Thực tế, quan điểm về một nhà nước có những dấu hiệu của nhà nước pháp quyền đã được thể hiện rõ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ, trong đó pháp quyền được đề cao đã xuất hiện sớm.
Trong bài “Việt Nam yêu cầu ca” đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã coi trọng vai trò của pháp quyền: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
+ Trước hết, nhà nước Việt Nam phải là nhà nước dân chủ triệt để. Đó là nền dân chủ đề cao nhân dân, nhân dân là chủ thể, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, được thực hiện triệt để cả dân chủ đại diện và trực tiếp. Để bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh coi chuyên chính là cái để giữ cho quyền dân chủ đó. Người cho rằng chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính ai, vì lợi ích của đa số hay thiểu số.
+ Thứ hai, nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước pháp quyền hợp hiến, hợp pháp. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3.9.1945, Người đề ra hai nhiệm vụ liên quan tới xây dựng nhà nước pháp quyền là: tổ chức Tổng tuyển cử và Xây dựng Hiến pháp để xác lập nền tảng dân chủ và nhà nước hợp hiến, hợp pháp ở Việt Nam.
+ Thứ ba, hệ thống pháp luật ở Việt Nam là hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, hướng tới các giá trị nhân văn. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật của ta là pháp luật dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do rộng rãi của nhân dân lao động. Muốn vậy, nhà nước phải thực sự của dân, chăm lo tới lợi ích của nhân dân.
+ Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền con người. Quyền con người của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới, độc lập dân tộc và giải phóng con người.
Như vậy, tư tưởng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhất quán và những tư tưởng ấy đã được Đảng ta vận dụng, phát triển để xây dựng nhà nước pháp quyền trong quá trình đổi mới đất nước.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta khẳng định trong quá trình đổi mới có cơ sở tư tưởng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử, đặc biệt là nền dân chủ tư sản và tư tưởng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện qua các Văn kiện của Đảng trong công cuộc đổi mới như sau: Đại hội lần thứ VI của Đảng đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hoá, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung bao cấp và chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sự chuyển hướng ấy đã đặt ra yêu cầu chúng ta cần nhận thức rõ hơn vai trò của pháp luật và phải “quản lý xã hội bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”.
Đại hội lần thứ VII của Đảng tuy chưa nêu lên khái niệm nhà nước pháp quyền nhưng đã xác định rằng “tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng: Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giảm, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật quản lý”
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CHXH do Đại hội VII của Đảng thông qua, đã xác định rằng: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”(2). Đến đại hội giữa nhiệm kỳ khoá VII, nhận thức mới của Đảng ta về nhà nước pháp quyền khá toàn diện và cụ thể. Hội nghị khẳng định tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Như vậy, lần đầu tiên trong văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam dùng khái niệm nhà nước pháp quyền Việt Nam, đồng thời chỉ ra những nguyên tắc, đặc trưng của nó, đánh dấu bước tiến rõ nét trên con đường nhận thức về nhà nước pháp quyền nước ta. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII đã ra nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước và đã nêu lên năm quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng và kiện toàn nhà nước:
+ Thứ nhất, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
+ Thứ hai, quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Thứ ba, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước.
+ Thứ tư, tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN.
+ Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước(3).
Đó là năm quan điểm cơ bản đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội VII. Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII (6.1997) có nhận xét rằng, trong quá trình đổi mới, Đảng ta “ đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do dân, vì dân”. Đồng thời khi phân tích nguyên nhân những yếu kém, hội nghị đã nêu lên một số vấn đề có tính phương pháp luận: “Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm”. Nghị quyết khẳng định tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 8 khoá VII và nhấn mạnh ba yêu cầu là tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Đại hội IX chỉ rõ: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp(4).
3 – Đặc điểm về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
3.1 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc đặc thù của riêng mình.
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, có thể khái quát trên các nét chính sau:
Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.
Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân c ư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
3.2 Những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ngoài việc bảo đảm các tiêu chí của nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng, còn có một số đặc điểm sau:
1 - Về quá trình hình thành và phát triển, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở đánh đổ chế độ phong kiến, thực dân, không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây là đặc điểm lịch sử rất quan trọng cho chúng ta thấy rõ điểm xuất phát của quá trình xây dựng nhà nước cùng với những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.
3 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến bộ của nhân loại.
Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...
Theo Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất được giao thực hiện thẩm quyền lập pháp, bên cạnh đó Quốc hội còn được giao thực hiện 13 nhiệm vụ nữa (xem Điều 2 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001); Chính phủ được phân công thực hiện thẩm quyền hành pháp; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao được phân công thực hiện thẩm quyền tư pháp. Như vậy, Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao không phải là cơ quan được giao nhiệm vụ lập pháp, nhưng hiện nay Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân lại quy định các cơ quan đó trình các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có ý kiến cho rằng, không nên giao cho Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao chủ trì soạn thảo và trình Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh, vì đây là thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hơn nữa, khái niệm lập pháp phải bao hàm toàn bộ nội dung của quá trình soạn thảo dự án luật, thông qua và ban hành luật, có như vậy mới bảo đảm tính khách quan toàn diện và chất lượng văn bản pháp luật.
4 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản nhất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này cần cân nhắc, xem xét các điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực của nguyên tắc này; đặc biệt phải lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy công quyền hiện nay.
5 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một đặc điểm quan trọng, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay và phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
6 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
7 - Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng pháp luật. Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức và xây dựng bộ máy để bảo đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Nhà nước, nhưng không chồng chéo với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp.
Qua những nội dung trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đã tiếp thu được những tinh hoa, những giá trị toàn nhân loại. Đó là các chế định pháp lý, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như những giá trị xã hội cao quý nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều ở nơi dân, mọi quyền lực nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền. Bản chất này được quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của CNXH. Sự khác biệt về bản chất ấy so với các nhà nước bóc lột biểu hiện bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước, chúng hoà quyện vào nhau.
Xuất phát từ lý luận duy vật lịch sử và thực tiễn, ai cũng có thể nhận thấy rằng bất kỳ nhà nước nào cũng là nền chuyên chính của giai cấp thống trị. Giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế sẽ nắm quyền thống trị về chính trị thông qua bộ máy nhà nước của mình. Trong chế độ ta, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo xã hội. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, được thể hiện ở toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách, đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhằm từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích giai cấp, nhân dân lao động và cả dân tộc. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Sự thống nhất ấy bắt nguồn từ bản chất của cách mạng XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì vậy, nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân. Bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân hoà quyện vào nhau, được quán triệt, cụ thể hoá, thể chế hoá trên mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, mọi hoạt động của nhà nước. Và cũng chỉ có nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mới đại biểu cho lợi ích chung của nhân dân lao động, của dân tộc. Tính nhân dân thể hiện ở chỗ nhà nước là của dân, quyền lực thực sự ở nơi dân, chính quyền do dân lập nên và tham gia quản lý; nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; cán bộ công chức nhà nước là công bộc của dân. Tính dân tộc của nhà nước được thể hiện ở chỗ, tổ chức và hoạt động của nhà nước ta kế thừa và phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc, coi “đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; giữ vững quan điểm của Đảng về độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân”.
C - KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tài liệu tham khảo
1 – giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật
Trường đại học luật hà nội , NXB Công an nhân dân , Hà nội 2008
2 – Tạp chí cộng sản số 6 năm 2011
3 – Nguồn tài liệu
4 – Một số tài liệu khác trên internet
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khái niệm, đặc điểm về nhà nước pháp quyền ở việt nam.docx