Tiểu luận Khảo sát việc sử dụng ngôn từ trên chuyên mục phóng sự báo Lao Động

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I. Những đặc điểm của phóng sự báo chí 2

1. Đặc điểm về nội dung 2

2. Đặc điểm về hình thức 4

2.1. Về ngôn ngữ, bút pháp và giọng điệu 4

2.2. Các dạng phóng sự báo chí 5

II. Khảo sát việc sử dụng ngôn từ của chuyên mục phóng sự trên báo Lao Động số số 184 ngày 10/08/2007, số 276 ngày 27/11/2007, số 285 ngày 07/12/2007 8

1. Ngôn ngữ tít 8

2. Ngôn ngữ sapô 9

3. Việc đáp ứng yêu cầu tính chất ngôn ngữ phóng sự so với tính chất ngôn ngữ báo chí 11

4. Một số thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ phóng sự 12

4.1. Dùng từ hội thoại 12

4.2. Dùng từ ngữ vay mượn tiếng nước ngoài 13

4.3. Dùng thuật ngữ 15

4.4. Dùng từ địa phương 15

4.5. Dùng chất liệu văn học 16

4.6. Dùng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn cùng các biến thể của chúng 17

4.7. Dùng dấu câu 18

4.8. Dùng ẩn dụ, nhân hoá 19

4.9. Dùng lối nói dựa, trích dẫn 20

5. Ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm phóng sự 21

5.1. Ngôn ngữ mang “cái tôi” trần thuật của tác giả 21

5.2. Ngôn ngữ không mang “cái tôi” trần thuật của tác giả 21

6. Phân loại các kiểu kết thúc trong phóng sự trên báo Lao Động 22

KẾT LUẬN 24

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2955 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khảo sát việc sử dụng ngôn từ trên chuyên mục phóng sự báo Lao Động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nêu lên những vấn đề đặt ra sau sự kiện được phản ánh trong tác phẩm. Điều đáng chú ý trong dạng phóng sự này một số yếu tố như: ngữ đIệu, ngôn từ, bút pháp, đòi hỏi giàu hình ảnh … Có phần bị hạn chế, không thực sự sinh động như trong các dạng phóng sự khác. Dạng phóng sự điều tra. Phóng sự điều tra là một dạng kết hợp giữa phóng sự báo chí với thể loại điều tra. Như chúng ta đã biết một trong những đặc điểm cơ bản của thể loại điều tra là phải trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống đang đặt ra. Cách trả lời của điều tra là thông qua một hệ thống những bằng chứng xác thực và tiêu biểu. Sự kết hợp giữa phóng sự và điều tra thường diễn ra theo nguyên tắc sau: tính chất phóng sự thường được thể hiện ở những yếu tố thuộc về hình thức của tác phẩm như ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu, sự xuất hiện của nhân vật trần thuật… Còn đặc điểm thể loại của điều tra thì được thể hiện chủ yếu trong việc huy động những chi tiết, số liệu, dữ kiện nhằm xây dựng một hê thống các luận cứ nhằm làm sáng tỏ cái lôgic bên trong thể hiện bản chất của sự thật mà tác phẩm đề cập, trả lời được câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Trong những bài phóng sự điều tra, hình thức phóng sự có thể giúp tác giả trình bày những vấn đề gai góc, căng thẳng một cách mềm mại và linh hoạt. Dạng bài này thường được sử dụng trong trường hợp khi đứng trước những sự kiện, tình huống, hiện trạng nào đó, vẫn đang còn những câu hỏi chưa được trả lời, hoặc có nhiều cách trả lời khác nhau. Dạng phóng sự phản ánh những hoàn cảnh, hiện trạng Trong thực tế của đời sống báo chí nước ta còn khá phổ biến một dạng phóng sự phản ánh về những hoàn cảnh, hiện trạng của đời sống mà không nhất thiết phải đề cập các mâu thuẫn hay trả lời những câu hỏi. Tất nhiên, với tư cách là những tác phẩm thuộc thể loại phóng sự, dạng phóng sự này vẫn phải có nhiệm vụ khám phá, phát hiện và cung cấp cho công chúng những thông tin mới mẻ, thú vị và bổ ích. Nó phải cung cấp cho người đọc những kiến thức xác thực, cụ thể và sinh động về đời sống xung quanh họ. Hay nói cách khác nó phải giúp cho công chúng những kiến thức cần để suy nghĩ, nhận thức và hành động. Trong số những tờ báo có chuyên mục về “phóng sự” ở nước ta, Sài Gòn giải phóng là tờ báo có tỉ lệ cao của những tác phẩm phóng sự thuộc dạng này. II. Khảo sát việc sử dụng ngôn từ của chuyên mục phóng sự trên báo Lao Động số số 184 ngày 10/08/2007, số 276 ngày 27/11/2007, số 285 ngày 07/12/2007 1. Ngôn ngữ tít Tít báo là một cấu trúc từ ngữ ngắn gọn gới thiệu khái quát chủ đề của tác phẩm và mức độ nào đó nếu có thể thu hút sự chú ý của công chúng và đương nhiên đây là thành tốđứng vị trí đầu tiên trong tác phẩm, là thành tố đầu tiên người đọc tiếp xúc với bài báo.Tít báo phải ngắn gọn, dễ hiểu và phải hấp dẫn. Tít báo thường có 7 loại cơ bản gồm: tít xác nhận, tít câu hỏi, tít kêu gọi, tít bình luận, tít trích dẫn, tít giật gân và tít biểu cảm. Ví dụ: “ Có một “Hoàng thành” nơi ải bắc” (Lao Động số 184 ngày 10/08/2007). Đây là một tít thuộc tít xác nhận, sử dụng ngôn ngữ có tính biểu cảm cao, sử dụng từ Hán Việt gây sự chú ý với người đọc.Tit bài tương đói ngắn gọn không rườm rà đã khái quát được một “Hoàng thành” bằng cách sử dụng những từ ngữ mang chất liệu văn học nhưng hình ảnh của tít luôngấưn với tính xấc thực của vấn đề.Các tít phụ mang tính chất thông báo dễ hiểu. (Nơi 3 công chúa nhà Lý về làm dâu). Tít phụ mang tính chất trái ngược về thời gian giữa thời gian dài và thời gian ngắn (17 năm và 35 ngày tìm kiến). Tít phụ thứ 3 có sức biểu cảm cao (Đánh thức 1000 năm lịch sử). “ “Săn” lâm tặc” (Lao động số 276 ngày 27/11/2007). Đây là một tít thuộc tít xác nhận. Tít sử dụng ngôn ngữ rất ngắn gọn chỉ gồm 3 từ nhưng người đọc đã hiểu được nội dung bài phóng sự viết về nạn phá rừnghiện nay. Vì bản thân tít nay đã giới thiệu chủ đề của cả tác phẩm.Trong tít này còn sử dụng dấu (“ ”)_ “săn”gây sự chú ý thu hút người đọc dù đây là một vấn đề vẫn hay được nói đến.Các tít phụ khá là ấn tượng có sức biểu cảm cao( Tan hoang đại ngàn, vượt biên tóm lâm tặc) “Người đàn bà đạp xíchlô thuê” ( Lao Động số 285 ngày 07/12/2007). đây là một tít báo xác nhận. Tít này sử dụng ngôn ngữ rất đơn giảndễ hiểu như nó vốn có không cần gọt giũa trau chuốt. Chỉ cần đọc tít thôi chúng ta đã biết bài phóng sự nói về sự vất vả cực nhọc của người đàn bà đạp xíchlô thuê. Vì trong tít đã cho người đọc biết nhân vật chính là ai, công việc của họ là gì. Các tít phụ cũng đơn giản, dễ hiểu. Như vậy, qua 3 tít cúa 3 bài phóng sự trên thì ta thấy tít “Săn” lâm tặc” dễ nhớ, dễ hiểu. Tít “Có một “Hoàng thành” nơi ải bắc” có sự biểu cảm cao.Tít “Người đàn bà đạp xích lô thuê” đơn giản dễ hiẻu như nó vốn có. 2. Ngôn ngữ sapô Sapô là một thuật ngữ bắt đầu từ tiếng Pháp chapean – cái mũ.Sapô được xem là một tiểu văn bản nằm dưới tít chính và phía trên phần nội dung được trình bày bằng cỡ chữ đặc biệt và có nhiệm vụ làm rõ hơn chủ đề tác phẩm. Sapô phải thu hút sự chú ý của độc giả. Ngôn ngữ viết sapô phải có cảm xúc và gây ấn tượng phải nêu được ý chính của tác phẩm chứng minh được tính thời sự của bài báo.Có 9 loại sapô đó là : sapô gọi tên, sapô tóm tắt, sapô nêu sự kiện dẫn đường,sapô chân dung, sapô tả cảnh, sapô nêu luận cứ, sapô kể chuyện, sapô nêu cảm xúc và suy tư riêng của tác giả, sapô tiếp nối tiêu đề. Ví dụ : * “Có thể hơi vội vàng nếu “ xưng tụng” những di tích kiến trúc của vương tôn hoàng tộc vưa phát lộ tại vùng đất phên giậu phía bắc Việt Nam kia là mang tầm cỡ của một “Hoàng thành”. Nhưng các báo cáo khoa học ban đầu đều cho thấy: các hạng mục củ “nền cũ lâu đài”hoành tráng mà các nhà khảo cổvừa khai quật được có niên đại từ triều Lý, với “rất nhiều nét tương đồng với hoàng thành Thăng Long” ”( LĐ số 184 ngày 10/08/2007). Đây là sapô tóm tắt.Đầu tiên tác giả cung cấp những thông tin cốt lõi liên quan tới nội dung tác phẩm với từ ngữ chính xác, dễ hiểu và cách sử dụng dấu (“ ”) tăng thêm tính hấp dẫn của bài phóng sự để người đọc có một cái nhìn khái quát về tác phẩm. * “Lần đầu tiên trong đời tôi đưựoc đi “săn” lâm tặc. Và, cũng là lần đầu tiên tôi được chứng kiến cảnh “rừng vàng” bị tàn phá. Thế mới biết mới kính trọng biết bao tấm gương đã ngã xuống vì rừng.Lần đầu tiên, tim tôi nhói đau trước những gốc cây trơ trọi, máu cây quằn quại chảy… “Rừng Thanh Thuỷ( Thanh chương - Nghệ An)đã bị lâm tặc “mò” đến rồi.Mờy chục năm công lao giữ rừng, dân mình không ai vi sơ thế mà giặc rừng bắt đầu phá…”. Câu chuyện ấy tôi tình cờ nghe được từ một lãnh đạo huyện Thanh Chương. Đồng chí đó còn tiết lộ, tới đây sẽ “ phát” công văn đề nghị làm việc với huyện Hương Sơn(Hà Tĩnh) để bàn về việc phối hợpbảo vệ rừng vì nóng ruột quá…Và tôi quyết trí đi theo các đồng chí kiểm lâm để “săn” lâm tặc”. Đây là sapô tóm tắt đồng thời nêu sư kiện dẫn đường.Bằng việc dùng ngôn ngữ rất cảm xúc và ấn tượng với những hình ảnh chất liệu văn học tác giả như vẽ ra truớc mắt chúng ta cảnh đau thương về cánh rừng Thanh Thuỷ như “rừng vàng”, “tim tôi nhói đau trước những gốc caay trơ trọi”.Tác giả còn dùng hình ảnh nhân hoá khi nói về cây rừng bị tàn phá “máu cây quằn quại chảy”. Cách dùng từ gây ấn tượng “săn” “mò”.Cách gới thiệ bài báo bằng những thông tin, chi tiết như thế này thực sự rất lôi cuốn người đọc và thể hiện được tính thới sự của phong sự. * “Giữa nhịp sống sôi động ồn ào, náo nhiệt trên những con đường Hà Nội, một ngày nào đó, bạn tình cờ trông thấy một người phụ nữ nhỏ bé đang oằn mình đạp xíchlô, trên xe trở vật liệu xây dựng.Có lẽ, chị là người duy nhất ở đất Hà thành chọn cho mình cái nghề mà từ lâu dường như chỉ dành cho đàn ông”. Đây là kiểu sapô chân dung, giới thiệu về một người phụ nữ đạp xích lô thuê với ngôn ngữ hết sức giản dị mà đầy cảm xúc. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ có tính biểu đạt cao “ồn ào náo nhiệt” “… một người phụ nữ nhỏ bé đang oằn mình đạp xíchlô…” làm cho người đọc có một sự cảm thông chia sẻ. Ơ sapô này tác giả đã dùng ngôn ngữ khái quát nhất để thảo những nét chân dung về nhân vật chính. 3. Việc đáp ứng yêu cầu tính chất ngôn ngữ phóng sự so với tính chất ngôn ngữ báo chí Qua việc khảo sát 3 phóng sự trên báo LĐ, chúng tôi thấy, ngôn ngữ trên 3 phóng sự này về cơ bản đã đáp ứng được khá đầy đủ những tính chất của ngôn ngữ báo chí. - Về tính chính xác và ngắn gọn. Vì văn phong báo chí tính chính xác là tính chất quan trọng hàng đầu. Nó có nhiệm vụ định hướng dư luận cho nên ngôn ngữ ở đây không hề bị bóp méo, sai sự thật. Ví dụ : LĐ số184 ngày 10/08/2007.Trong bài này cách sử dụng từ ngư ngắn gọn, chính xác giúp người đọc tiếp nhận tác phẩm nhanh và đúng.Như cách chí rã địa điểm( Đền Cầu Từ, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc giang/ Theo chân anh Hạnh – Phó Giám đốc bảo tàng tỉnh Bắc giang). LĐ số 276 ngày 27/11/2007.Trong bài này tác giả sử dụng ngôn ngữ chính xác, xúc tích, ngắn gọn để nêu lên vấn đề nóng bỏng được cả xã hội quan tâm. Đó là nạn chặt phá rừng rất lôi kéo thu hút người đọc. LĐ số 285 ngày 07/12/2007.Bài phóng sự này cũng bắt nguồn từ một con người thật với công việc thật. Tác giả sử dụng ngôn ngữ giản đơn không sử dụng câu dài, không trau chuốt gọt giũa nhưng lại gây sự đồng cảm chia sẻ vơi người đọc về một người phụ nữ đạp xích lô thuê. - Về tính đại chúng và tính cụ thể. Trong 3 bài phóng sự mà chúng tôi tiến hành khảo sát thì 2 bài “ “Săn” lâm tặc” và “ Người đàn bà đạp xích lô thuê” tác giả sử dụng ngôn ngữ phổ cập dễ hiểu mang tính toàn dân xoá noà danh giới giữa những người tiếp nhận.Nhưng trong bài “ Có một Hoàng thành nơi ải bắc”việc sử dụng ngôn ngữ nước ngoài( từ Hán – Việt ) hơi nhiều nên đôi khi còn gây khó khăn cho người đọc.Trong 3 bài phóng sự này tính cụ thể được thể hiện bằng việc đưa ra những con số chính xác, cách miêu tả tin cậy mà không hề đơn điệu. Ví dụ : LĐ số 184 ngày 10/08/2007 “Vào giữa năm 2007 các nhà khảo cổ đã có 35 ngày đào bới ở khu vực Cầu Từ”. “Cuộc tìm kiếm đã 17 năm ấy, qua lời kể của Giám đốc bảo tàng bắc Giang Trần Văn Lạng” LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “Thế là phải cuốc bộ trong hành trình tuần rừng với khoảng 10km”. “Phía bên này gọi là rừng Chéch do tổng độĩ TNXP 5 quản lý và bảo vệ. Rừng Chéch có 13km giáp ranh với xã Sơn Hồng và 5,5km giáp với nước bạn Lào”. “Tổng đội trưởng cho hay, rừng Chéch của các anh đã mất 30 cây”. “Đây là tiểu khu 1007 với 6.000 ha rừng… Vừa đi vừa đếm, lên tới đỉnh dốc đã có đến 25 cây bị hạ”. - Về tính bình giải, tính định lượng. tính khuôn mẫu thì ở 3 bài phóng sự này thể hiện khá rõ.Bằng ngôn ngữ của mình ,tác giả thể hiện cái tôi rõ nét nhưng hết sức khách quan và chịu trách nhiệm như một nhân chứng( như bài “Săn” lâm tặc, Có một “Hoàng thành” nơi ải bắc). Hay thể hiện tình cảm một cách công khai( như “ Người đàn bà đạp xích lô thuê”).Tính biểu cảm của 3 tác phẩm phóng sự này sẽ được phân tich rõ hơn ở phần sau.Về dung lượng các bài phóng sự chúng tôi tiến hành khảo sát có dung lượng phù hợp , có tính khuôn mẫu nhưng không hề khô cứng, ngôn ngữ khá biểu cảm vừa chinh phục người đọc về ý trí lại vừa cảm hoá họ về trái tim. 4. Một số thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ phóng sự 4.1. Dùng từ hội thoại Từ hội thoại ở đay được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó bao hàm các từ thuộc vốn từ vựng của ngôn ngữ văn hoá được dùng đặc biệt trong lời nói miệng, trong sinh hoạt hàng ngày và một số từ thông tục và từ lóng, vì những từ trong hai loại sau này chỉ được chuyên dùng trong khẩu ngữ. Ví dụ : * LĐ số 184 ngày 10/08/2007. “ Tiếp đó, khi các nhà nghiên cứu tìm ra một văn bản chữ nho có kiên quan đến một nhân vật lịch sử thoèi Lý, họ bèn “kéo quân” xuống điều tra” *LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “ săn” lâm tặc “ Được thế đã ơn trời” “Vượt biên tóm lâm tặc” “Thế là lâm tặc đã “mò” sang rừng mình hơn 100 mét rồi” “ Đốn cây xong chúng còn “tăm” thêm những cây khác có giá trị rồi khắc tên làm dấu để khẳng định “ quyền sở hữu” ” *LĐ số 285 ngày 07/12/2007 “ Anh nhà tôi trước đây cũng đi đẩy hàng giúp nhưng kể từ khi bị thấp khớp mấy năm nay cũng vì lao động nặng, nên chỉ mình tôi làm, vất vả thật đấy nhưng từ nhiều năm nay cả nhà chỉ trông vào cai xích lô cà tàng” “ Hôm đó, chị chở những tảng đá nặng trĩu, một thanh niên đi xe máy,phóng nhanh vượt ẩu đã tông vào xe của chị”. “ Thu nhập như bây giờ đã phải chi tiêu dè sẻn lắm rồi”. 4.2. Dùng từ ngữ vay mượn tiếng nước ngoài Sử dụng từ vay mượn ngôn ngữ Ân - Âu có thể được giữ nguyên dangj hay phiên âm. Ví dụ: LĐ số 285 ngày 07/12/2007. “Vất vả thật đấy nhưng từ nhiều năm nay cả nhà chỉ trông vào cái xíchlô cà tàng ” . “ Trong dịp APEC năm ngoái hay kì bầu cử Quốc hội mấy tháng trước, chị gặp nhiều khó khăn khi giao hàng cho khách”. Còn từ Hán Việt được dùng quá phổ cập và trở thành một bộ phận không thể thiếu của tiếng Việt. Song không vì thế mà người ta không nhìn thấy khả năng tăng cường tính biểu cảm của chúng. Ví dụ : * LĐ số 184 ngày 10/08/2007. “ Theo chân anh Hạnh – PGĐ bảo tàng tỉnh Bắc Giang,tôi thành kính, sững lại bởi nét vàng son của hệ thống dinh thất mà các đời công chúa, các phò mã nhà Lý xa xưa hiển lộ ngay trên mạt đất, bên bờ sông Lục Nam thơ mộng”. “ Đặc biệt con đường lát gạch hoa chanh trải dài vượt qua các lòng hố khai quật, được xem như là một tín hiệu chính xác để khẳng định đây là công trình của vương tôn, quí tộc cao cấp thời Lý”. “ Cây thị đã cổ thụ từ cái thời công chúa nhà lý vượt bến sông Thương vu qui về bắc ải.Đền Cầu Từ thờ bà công chúa nhà Lý là thân mẫu của ông Vũ Thành”. “ Đây là chính sách “nhu viễn” nhằm động viên những người đứng đầu các địa phương, các tù trưởng( phò mã )dốc sức giữ yên bờ cõi mà nhà Lý đang thực thi”. “ Vua Lý cũng phải tuần du đi kiểm tra tình hình liên tục chứ cũng phải xây thành quách dinh thự cho con gái, con rể”. “ Vua Lý Thánh Tông mượn việc đi săn ở lưu vực sông Thương và sông Lục Nam đã đến Giáp Đông giao nhiệm vụ giữ gìn biên cương”. *LĐ số276 ngày 27/11/2007. “ “ Săn” lâm tặc”. “ Tuy nhiên, anh cũng rất bức xúc : chúng tôi cực chẳng đã mới vượt biên sang bên này để tuần rừng”. Việc sử dụng tiếng nước ngoài thực sự tạo một ưu thế nổi trội so với các từ có cách diễn đạt tương đương trong tiếng Việt.Bằng các ngôn tuìư như thế làm cho tác phẩm phóng sự chích xác hơn, đầy đủ hơn, có vỏ âm thanh nghe gợi cảm hơn.Nói chung tiếng nước ngoài sử dụng trong ba phóng sự này là gần gũi với công chúng.Nhưng có một hạn chế nhỏ trong bài phóng sự “Có một Hoàng thành nơi ải bắc”. Có lẽ, do sử dụng nhiều từ Hán Việt nên đôi khi gây khó khăn cho người đọc. Song về cơ bản không gây cản trở nhiêu cho quá trình nhận thức của người đọc. 4.3. Dùng thuật ngữ Các từ thuật ngữ, xét về tự thân, là những từ trung tính tức là không mang sắc thái biểu cảm nhưng khi kết hợp hài hào với từ khuôn mẫu chúng có khả năng tăng tính biểu cảm ratá đáng kế. Ví dụ : * LĐ số 184 ngày 10/08/2007. “ Những báo cáo khoa học cho thấy : các hạng mục “ nền cũ lâu đài” hoành tráng mà các nhà khảo cổ vừa khai quật có niên đại từ triều Lý”. “ Cuối cùng họ đã tìm và khai quật được dấu tích gạch ngói và công trình thời Lý”. “ Hiện nay, các nhà khoa học đã tức tốc đề nghị cơ quan chức năng có biện pháp bảo quản hiện vật”. *LĐ số276 ngày 27/11/2007. “ Trắng trợn thế đấy. Đốn cây xong chúng còn tăm thêm những cây khác có giá trị rồi khắc tên làm dấu thể hiện “quyền sở hữu” “ Anh Ngũ ra lệnh áp sát đối tượng” “ Chúng tôi bắt đầu hỏi cung” “ Kiểm lâm phát huy là lực lượng nòng cốt, chủ động chặt chẽ kết hợp với các lực lượng: chủ rừng bộ đội biên phòng và công an(…)” “ Hôm đó cũng đi tuần tra thế này, cây cồng lúc nãy ở đỉnh Bo Đượm bị lâm tặc đốn hạ và đã chuyển ra bãi Sơn Hồng, cả đội liền tổ chức vây bắt” Hiện nay, do khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, nhiều lĩnh vực mới ra đời nên số lượng thuật ngữ ngày càng phat triển nhanh chóng và xuất hiện với mật độ ngày càng dày trên các báo nói chung và tren thể loại phóng sự của bao Lao Động nói riêng.Như ở trên báo LĐ số 276 việc sử dụng các thuật ngữ thuộc chuyên ngành điều tra góp phần tăng sức lôi cuốn người đọc và làm cho bài phóng sự thể hiện dựoc hết nội dung ý nghĩa của nó. 4.4. Dùng từ địa phương Các từ địa phương luôn mang đậm dấu ấn riêng về lời ăn tiếng nói của một cộng đồng người gắn liền với một vùng đất. Vì thế, chúng làm cho câu văn có sắc thái mới lạ, đôi khi khá giau sức gợi cảm. Ví dụ : * LĐ số 285 ngày 07/12/2007. “ Thu nhập như bây giờ chi tiêu phải dè sẻn lắm rồi.Nếu còn ốm đau nữa thì thật là xo xúi, lúc đó phải đi vay tạm hàng xóm thôi”. * LĐ số 184 ngày 10/08/2007. “ Dần dà nghe kể, bà con trong vùng thờ cúng một thủ lĩnh người dân tộc Tày tên là Vũ Thành”. Như vậy, từ địa phương trong ba bài bao mà chúng tôi tiến hành khảo sát không nhiều nhưng dễ nhân thấy trong ngôn ngữ nhân vật( LĐ số285 ). Được thể hiện tự nhiên như sự phản ánh chân thực lời ăn tiếng nói của người đàn bà đạp xích lô thuê. 4.5. Dùng chất liệu văn học Chất liệu văn học có mặt rộng rãi trong hầu hết các thể loại báo chí theo nhièu hình thức khác nhau và phóng sự cũng vậy.Cách thức thương gặp là vay mượn cốt chuyện , hay từ ngữ, cách diễn đạt từ những tác phẩm vâưn học. Trong phần chúng tôi tiến hành khảo sát thì chất liệu văn học chủ yếu được thể hiện qua các từ ngữ cách diễn đạt giàu sức gợi cảm. Ví dụ : * LĐ số 184 ngày10/08/2007. “ Tôi thành kính sững lại bởi nét vàng son của hệ thống dinh thất mà các đời công chúa, các phò mã nhà Lý xa xưa hiển lộ ngay trên mặt đất, bên bờ sông Lục Nam thơ mộng”. “ Con đường lá gạch hoa chanh” “ Điều này cũng góp phần lý giải vì sao nơi này có đền đài lăng tẩm nguy nga, gồm những nét tương đồng với Hoàng thành Thăng Long đến vậy”. * LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “ Và cũng đã nhiều lần đầu tiên tôi được chứng kiến cảnh “rừng vàng” bị tàn phá. Thế mới biết, kính trọng biết bao tấm gương đã ngã xuống vì rừng. Lần đầu tiên tim tôi nhói đau trước những gốc cây trơ trọi, máu cây quằn quại”. “ ì ạch mãi chiếc xe hai cầu của Tổng đội Thanh niên xung phong số 5 không nhích thêm được một mét nào nữa”. “ Từ nhiều năm nay, lâm tặc trắng trợn đốn hạ(…). Bây giờ, bên kia hoang tàn rồi”. “ Có những gốc cây còn tươi rói, nhựa cây đang quằn quại ứa ra”. “ Thỉnh thoảng tiếng đóng móc sắt lại vang lên chát chúa”. * LĐ số 285 ngày 07/12/2007. “ Một ngày nào đó, bạn tình cờ trông thấy một người phụ nữ nhỏ bé đang oằn mình đạp xích lô trên xe chở vật liệu xây dựng”. “ Thân hình gầy còm, dôi bàn tay chai sạn thô ráp đủ thấy cuộc đời chị luôn là sự lam lũ vất vả chưa có nhiều niềm vui”. Qua những ví dụ trên, chúng ta thấy chất liệu văn học được sử dụng hết sức rộng rãi và linh hoạt. Chúng co thể đuéng bất kỳ chỗ nào trong bài viết từ tiêu đề cho đến các câu văn trong đoạn văn.Cách sử dụng ngôn ngữ như vậy không chỉ làm tăng thêm sức biểu cảm mà còn giúp tác phẩm dễ đi vào lòng người, hiệu quả tiếp nhận thông tin cao hơn. 4.6. Dùng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn…cùng các biến thể của chúng Các phương tiện ngôn ngữ thường có ý nghĩa rất rõ ràng, rễ hiểu và xuất hiện với tần số cao trong hoạt động giao tiếp hàng ngày ( nhất là thành ngữ, tụ ngữ ).Nên việc sử dụng chúng rất thuận lợi đối với người viét và người đọc. Ví dụ : * LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “ Tuy nhiên, anh cũng rất bức xúc :chúng tôi cực chẳng đã mới phải vượt biên sang này để tuần rừg”. “ Anh tiết lộ bí quyết “4 trong 1” để giữ rừng : kiểm lâm phát huy là lược lượng nòng cốt, chủ động kết hợp chặt chẽ với các lực lượng chủ rừng bộ đội và công an, tất cả phải thực hiện trách nhiêm với rừng,với nhân dân thì không lý gì không giữ được rừng”. * LĐ số285 ngày 07/12/2007. “ Cuộc sống với gia đình chị ngày càng khó khăn hơn khi “cơn bão giá” đang hoành hành.Mọi chi tiêu lúc trước phải hết sức dè sẻn, giờ lại càng phải “thắt lưng buộc bụng” hơn nữa”. Khảo sát cho thấy việc dùng thành ngữ, tục ngữ đang là thủ pháp được dùng tăng cường trên các loại báo chí nói chung và thể loại trên báo Lao Động nói riêng. 4.7. Dùng dấu câu Các dấu câu bây giờ cũng là phương tiện đắc dụng trong việc tạo nên giá trị biểu cảm cho ngôn ngữ phóng sự nói riêng. Ơ đây, chúng tôi chỉ bàn đến dấu ngoặc kép và dấu chấm lửng như hai loại dấu câu nổi bật hơn cả về phương diện này. Dấu ngoặc kép có giá trị biểu cảm cao khi báo hiệu rằng từ ngữ nào đó được dùng không phải với ý nghĩa, phong cách thông dụng của chúng.Nó mang đến cho câu văn sắc thai dí dỏm, hài hước hoặc mỉa mai, châm biếm. Ví dụ : * LĐ số 184 ngày 10/08/2007. “ Cả các bậc “lão làng” của giới nghiên cứu bây giờ” “ Tiếp đó, khi các nhà nghiên cứu tìm ra một văn bản chữ nho co liên quan đến một nhân vật lịch sử thời Lý, họ bèn “kéo quân” xuống điều tra”. * LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “ Rừng Thanh Thuỷ đã bị bọn lâm tặc “mò” đến rồi” “ Đồng chí còntiết lộ, tới đây sẽ “phát” công văn đề nghị làm việc với huyện Hương Sơn.” “ Và tôi quyết chí đi theo các cán bộ kiểm lâm để “săn” lâm tặc” “ Đốn cây xong chúng còn “tăm” thêm những cây khác có giá trị, khắc tên làm dấu để khẳng định “quyền sở hữu” ”. “ Không còn gỗ để mà phá hành loạt nên lâm tặc phải “chịu khó” tỉa từng cây một”. * LĐ số 285 ngày 07/12/2007. “ Tuy nhiên, công việc của chị đang làm cũng bị cạnh tranh từ nhưng người “đồng nghiệp”. “ Cuộc sống với chị ngày càng khó khăn hơn khi “cơn bão giá” đang hoành hành”. Dấu chấm lửng tăng cường tính biểu cảm cho ngôn ngữ phóng sự khi nó thực hiện chức năng làm giãn nhịp câu văn hoặc gợi mở định hướng khác nhau cho người đọc. Ví dụ : * LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “ Tôi đau nhói trước những gốc cây trơ trọi, máu cây quằn quại chảy…” “ (…) để bàn về việc phối hợp bảo vệ rừng , vì nóng ruột quá…Và tôi quyết trí đi theo các cán bộ (…)” “ Một cây bị hạ gục, hàng chục cây khac đổ theo tạo nên một khung cảnh chỏng chơ, hoang tàn…” “ Mình chở gỗ cho khéo léo thì không ai bắt cả…”(?) 4.8. Dùng ẩn dụ, nhân hoá Ẩn dụ, nhân hoá trong phóng sự thường mang tính chất văn cảnh. Nó là sáng tạo riêng của người viết và in đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ : * LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “ Lần đầu tiên, tim tôi nhói đau trước những gốc cây trơ trọi, máu đang quằn quại chảy…” “ Có những gốc cây còn tươi rói, nhựa cây đang quằn quại ứa ra”. “ Những gốc cây ứa máu” “ Tiếng máy cưa ngang nhiên gầm rú” * LĐ số 285 ngày 07/12/2007. “ Chị Hằng cùng chiếc “cần câu cơm” trên một đương phố Hà Nội” Như vậy, việc sử dụng biện pháp này của nhà báo với mục đích như một phương tiện đối lập với khuôn mẫu, một phương tiện nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của độc giả nhưng thực sự gây được ấn tượng rất lớn. 4.9. Dùng lối nói dựa, trích dẫn Ở đây, tác giả chỉ ra nguồn gốc, xuất xứ của những cách diễn đạt gợi cảm nào đó mà tác giả vay mượn nhằm thông báo cho độc giả biết rằng : Anh ta chỉ đồng tình với những kiểu nói ấy chứ không phải chịu trách nhiệm về chất luợng của sự gợi cảm trong chúng.Và chính thủ pháp này đã làm cho câu văn bớt đi tính chủ quan, trở nên mềm mại nhẹ nhàng và thông tin hàm chứa trong nó cũng có độ xác thực cao hơn. Ví dụ : * LĐ số 184 ngày 10/08/2007. “ Một nhà nhà nghiên cứu tâm huyết với các lớp lang vùng Hà bắc đã vô cùng hứng khởi: “Đây là một câu chuyện có ý nghĩa lớn cần bàn thảo, nhất là sắp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Một sự thức giấc của những giá trị nghìn năm tuổi ở vùng phên giậu, những giá trị mà chúng tôi đã bao năm tìm kiếm.” ”. “ Ths. Trịnh Hoàng Hiệp – cán bộ viện khảo cổ, người phụ trách công việc khai quật ở khu vực – dù rất thận trọng cũng khẳng định : “ Những bằng chứng về khảo cổ học cho chúng ta thấy, trước đây, nơi này là chốn trị sự của các quan lại nhà Lý” ”. *LĐ số 276 ngày 27/11/2007. “ Anh cũng cho biết: nếu chỉ riêng lực lượng củ tổng đội tuần rừng thì đến đây là phải dừng. Mình không thể đi sâu vào đất của họ. Chỉ hôm nào có cán bộ kiểm lâm hoặc bộ đội biên phòngđi cùng mới vào sâu như hôm nay”. “ Tiếp tục hỏi bọn chúng cho biết: Xã có cấm nhưng xin thì họn cho. Mình chở gỗ khéo léo thì không ai bắt cả..” * LĐ số285 ngày 07/12/2007. “ Chị trả lời giản dị: Tôi lao động vất vả quen rồi nên không thấy khó khăn gì lắm. Nếu có buôn bán hàng gì đó thì thiếu vốn và thu nhập cũng không ổn định. Làm nghề này tuy vất vả nhưng cũng có tiền diều hàng tháng”. “ Họ có lợi thế hơn tôi vì đi nhanh và trở dựoc nhiều hàng hơn, nên đôi khi mình cung bị thiệt”. 5. Ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm phóng sự 5.1. Ngôn ngữ mang “cái tôi” trần thuật của tác giả Ở kiểu ngôn ngữ này, tác giả xưng “tôi” khi trình bày hay bàn luận về các vânđề, sự kiện.. “Cái tôi” này thường là “cái tôi” nhân chứng cho nên nó có tác dụng làm tăng độ xác thực tin cậy cho thông tin. Ví dụ : * LĐ số 276 ngày 27/11/2007. Đây là một bài phóng sự viết theo kiểu phóng sự điều tra. Cái tôi được thể hiện rất rõ nhưng là cái tôi khách quan, xác thực.Ngôn ngữ ở đây mang cái tôi trần thuật của tác giả cũng rất giàu tính biểu cảm nên sinh động dễ đi vào lòng người. “Lần đầu tiên trong đời tôi được đi “săn” lâm tặc và, cũng là lần đầu tiên tôi được chứng kiến cảnh “rừng vàn” bị tàn phá”. “Tôi không tin vào lời lâm tặc nhưng tôi hết sức băn khoăn: Gỗ có thể chặt được, nhưng để đưa được về đau phải là chuyện dễ. Hơn nữa, rừng tan hoang thế này không ai có biện pháp gì sao?”. “ Hạt trưởng kiểm lâm huyện Thanh Chương – Phan Tuấn Ngũ –

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNN11 (5).doc
Tài liệu liên quan