Trong suốt nhiều năm, Chính phủ các nước Đông Á đã không ngừng tiến hành tự do hóa hệ thống tài chính của họ và nỗ lực xây dựng một mạng lưới thể chế hỗ trợ cho các hoạt động. Khu vực tài chính phát triển sâu rộng và tự do hơn ngày càng thúc đẩy các nguồn lực tiết kiệm trong dân và các nguồn tín dụng từ nước ngoài với lãi suất thấp.
Tuy sự tự do hóa tài chính này đạt được nhiều tiến bộm song vẫn hoạt động theo phương thức không có thị trường trái phiếu và thiếu sự giám sát an toàn, cũng như vai trò can thiệp "ngầm" của Chính phủ quá sâu thông qua ngân hàng quốc doanh hoặc chỉ thị cho những ngân hàng tư nhân phải cấp tín dụng với lãi xuất thấp cho các công ty được chính phủ ưu đãi. Điều này đã dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong việc phân bổ các nguồn lực. Khắp khu vực tràn lan tình trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho những ngành công nghiệp có chọn lọc và những nghành độc quyền được chính phủ bảo hộ. Khu vực tài chính ngập sâu vào các lĩnh vực hoạt động nhiều rủi ro, cơ cấu tài sản nợ cũng mang nhiều rủi ro và sự phát triển thể chế kém được che đậy bởi tốc độ tăng trưởng cao, tỉ lệ tiết kiệm lớn và ngân sách dồi dào.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Khùng hoảng Đông Á 1997- Nguyên nhân sâu xa từ phía quản lý Nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am không bị ảnh hưởng mấy. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Tình hình kinh tế các nước Đông Á trước khi xảy ra khủng hoảng.
Từ thập kỷ 60 đến giữa những năm 90, thế giới đã chứng kiện sự bùng nổ về kinh tế của các nước Đông Á với tư cách là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Sự tăng trưởng này bắt đầu từ Nhật Bản trong những năm 1960; tiếp đó là các nền kinh tế đang công nghiệp hóa mới ở Châu Á như NIEs ( Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore); một số nước ASEAN (Malaysia, Thái Lan và Indonesia) và các nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi (Trung Quốc, Việt Nam). Trong 3 thập kỷ tăng trưởng liên tục các nước châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Á dẫn đầu là Nhật Bản luôn có mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân của thế giới : vào thập kỷ 70, GDP các nước Đông Á tăng bình quân 6,9%/năm so với 3,6% của thế giới, đến thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90 là 7,8% so với 2,9 %. Một số nước có mức tăng trưởng GPD bình quân rất ấn tượng trong thời kỳ 1980-1990 như Hàn Quốc 9.4%/năm, Đài Loan 7.9%/năm, Thái Lan 7.5%/ năm, Malaysia 7%/năm
Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người của Thái Lan đã tăng từ mức 440 USD năm1955 lên 3012 USD năm 1996 còn GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc đã nhẩy vọt từ khoảng 100 USD vào năm 1963 lên mức kỉ lục hơn 10.000 USD vào năm 1995, tức là gấp 100 lần. Cùng với đó, ở một số nước khác như Singapore GDP cũng tăng mạnh từ mức 25 tỉ USD năm 1980 lên 119 tỉ USD năm 1995 .GDP đầu người của Malaysia cũng tăng với mức 31% trong thập niên 1960 và một tỷ lệ tăng đáng kinh ngạc 358% trong thập niên 1970. Thương mại đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển nhanh chóng của khu vực này. Để thúc đẩy xuất khẩu phát triển, một loạt chính sách hỗ trợ đã được chính phủ nhiều nước đưa ra như giảm thuế, hỗ trợ mua nguyên vật liệu đầu vào, cấp tín dụng với lãi suất cho vay ưu đãi. Nhờ vậy xuất khẩu của các nước Đông Á tăng mạnh từ những năm 70 với tốc độ tăng trưởng có thể lên đến10% ở nhiều quý. Trong những năm 1970-1995, xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 100USD lên 400USD ở Hàn Quốc và từ 80USD lên 850USD ở Thái Lan.
Nhờ tốc độ tăng trưởng hết sức nhanh chóng của tổng thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ nghèo đói ở khu vực này đã giảm một nửa từ 1975 đến 1995. Hơn thế nữa, tốc độ giảm tỷ lệ nghèo đã ngày càng cải thiện: tổng số người nghèo đã giảm 27% trong giai đoạn 1975-1985 và giảm tiếp 34% trong giai đoạn 1986-1995, một tốc độ giảm nghèo nhanh hơn bất kì khu vực đang phát triển nào trên thế giới. Với sự phát triển đầy mạnh mẽ, tỉ lệ tiết kiệm cao, các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển nguồn nhân lực đang ngày càng thu hút sự đổ vào của các dòng vốn và được cả thế giới quan tâm gọi đây là sự kì diệu của Đông Á. Thế nhưng ngay chính lúc cả nhân loại vẫn nhìn hiện tượng kì diệu ở Đông Á với ánh mắt đầy lạc quan và ngưỡng mộ thì Đông Á vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, rủi ro của sự phát triển thiếu bền vững từ chính bản thân nó mà sau này đã dẫn đến một kết cục bi thảm làm lụi bại những hào quang của một thời kỳ bùng nổ kinh tế trước đó.
Diến biến cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á 1997
Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD.
Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống.
Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.
Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000: 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
Nguyên nhân trên phương diện quản lý Nhà nước của cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997
Chính phủ các nước Đông Á đã duy trì tỷ giá ổn định quá lâu so với đồng USD.
Vào thời điểm lúc bấy giờ, phần lớn các quốc gia ở Đông Á áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định, tức là neo danh nghĩa bằng cách neo lỏng đồng tiền của mình vào đồng Đôla Mỹ một thời gian dài trước cuộc khủng hoảng đã dẫn đến sự thay đổi tỉ giá hối đoái thực của thời kì trước. Nhiều nước Đông Á bắt đầu có tình trạng tỉ giá thực tế lên giá từ giữa năm 1995. Đó là kết quả của việc gắn chặt và duy trì tỉ giá cố định trong một thời gian dài so với USD. Việc duy trì tỉ giá cố định quá lâu làm cho đồng nội tệ của các nước này lên giá một cách giả tạo so với đồng USD và lãi suất của đồng bản tệ cao hơn USD.
Việc duy trì này của các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn nền kinh tế Mĩ rất nhiều đã khiến cho các nước này thay vì để đồng tiền của nước mình tăng giảm theo đúng giá trị của nó lại phải tiêu tốn hàng chục tỷ USD để cố gắng duy trì mức cân bằng giả tạo tới mức không thể kìm giữ nổi.
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Khi đó, tác động tiêu cực của chính sách duy trì tỷ giá cố định đã được bộc lộ.Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Nền kinh tế không còn niềm tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Lúc này, Chính phủ các nước Đông Á lại bộc lộ năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Quản lý Nhà nước đã buông lỏng và bao che những yếu kém trong công tác điều phối và kiểm tra giám sát hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Trong suốt nhiều năm, Chính phủ các nước Đông Á đã không ngừng tiến hành tự do hóa hệ thống tài chính của họ và nỗ lực xây dựng một mạng lưới thể chế hỗ trợ cho các hoạt động. Khu vực tài chính phát triển sâu rộng và tự do hơn ngày càng thúc đẩy các nguồn lực tiết kiệm trong dân và các nguồn tín dụng từ nước ngoài với lãi suất thấp.
Tuy sự tự do hóa tài chính này đạt được nhiều tiến bộm song vẫn hoạt động theo phương thức không có thị trường trái phiếu và thiếu sự giám sát an toàn, cũng như vai trò can thiệp "ngầm" của Chính phủ quá sâu thông qua ngân hàng quốc doanh hoặc chỉ thị cho những ngân hàng tư nhân phải cấp tín dụng với lãi xuất thấp cho các công ty được chính phủ ưu đãi. Điều này đã dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong việc phân bổ các nguồn lực. Khắp khu vực tràn lan tình trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho những ngành công nghiệp có chọn lọc và những nghành độc quyền được chính phủ bảo hộ. Khu vực tài chính ngập sâu vào các lĩnh vực hoạt động nhiều rủi ro, cơ cấu tài sản nợ cũng mang nhiều rủi ro và sự phát triển thể chế kém được che đậy bởi tốc độ tăng trưởng cao, tỉ lệ tiết kiệm lớn và ngân sách dồi dào.
Hơn thế nữa, việc Chính phủ các nước Đông Á phát triên một hệ thống tài chính khập khiễng, manh mún đã hạn chế sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các loại hình dịch vụ tài chính (ví dụ giữa ngân hàng thương mại với các công ty tài chính) khiến cho nguồn tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào hệ thống các ngân hàng nội địa vốn còn nhiều yếu kém như: tỉ lệ đủ vốn của các ngân hàng thấp, hạn mức cho vay đối với các đối tượng đi vay là các cá nhân hay nhóm người chưa được quy định hợp lý và thực hiện cũng chưa nghiêm túc; các quy trình phân loại tài sản và các quy định trích lập các quỹ phòng ngừa các tổn thất trong quá trình hoạt động, không đạt tiêu chuẩn quốc tế về tính công khai minh bạch và thiếu sự giám sát rủi ro cũng như bảo hiểm rủi ro. Việc cho vay tiền chủ yếu dựa trên phương thức thế chấp chứ không dựa trên ngân lưu đã làm cho việc phân tích khả năng hoặc rủi ro của dự án thêm rắc rối, khó xác định tính khả thi. Bên cạnh đó, sự ra đời nhanh chóng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, thường thiếu kỉ luật nội bộ, thiếu giám sát và kỉ luật thị trường đã de dọa vị thế tuyệt đối và giá trị đặc quyền của các ngân hàng, buộc các ngân hàng này phải theo đuổi các chiến lược đầu tư có tính rủi ro hơn để cạnh tranh. Sự phát triển về số lượng và nguồn vốn hoạt động của các tổ chức phi ngân hàng và việc theo đuổi các khoản cho vay và đầu tư rủi ro hơn của các ngân hàng đã trực tiếp góp phần làm tăng khả năng đổ vỡ của cả hệ thống tài chính.
Mặt khác, cùng với sự yếu kém trong quản lý Nhà nước và thể chế của các ngân hàng, vai trò của chính phủ cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp khuyến khích và làm trầm trọng thêm sự yếu kém đó, dẫn đến sự hoạt động không hiệu quả. Nguồn tín dụng thường có xu hướng đến với các cá nhân hoặc tổ chức có quan hệ với chính phủ hoặc với các ngân hàng tư nhân, chủ yếu rót vào các ngành được ưu đãi chứ ít dựa trên các kết quả phân tích tính thực tiễn, khả năng thu hồi vốn và giá trị các tài sản thế chấp. Cùng với đó, tác động kéo dài của các chính sách trước đây trong việc đối phó với nền tài chính suy yếu đã làm gia tăng ánh hưởng của các yếu tố bất lợi. Việc khắc phục các cuộc khủng hoảng trước đây (như ở Thái Lan những năm 1983-1987) bằng một phần hay toàn bộ từ công quỹ đã càng củng cố thêm quan điểm ngầm định về sự bảo đảm "ngầm" của chính phủ với tiền gửi, thậm chí cả tài sản nợ khác của ngân hàng, đã phá vỡ nguyên lý thị trường, làm chậm quá trình cải thiện quản lý ở các tổ chức tài chính đã được cơ cấu và giảm động cơ khuyến khích hoạt động thận trọng trong tương lai. Chính sự bảo lãnh ngầm của chính phủ và việc thành lập các trung tâm tài chính nước ngoài đã thúc đẩy các ngân hàng, và các tổ chức tài chính tìm đến những nguồn vốn vay ngắn hạn và lãi suất thấp (và không được bảo hiểm) của nước ngoài để cho các công ty trong nước vay đầu tư vào các dự án dài hạn, nhiều rủi ro biến động (chủ yếu là các dự án đầu tư vào thị trường bất động sản và chứng khoán). Khi chính phủ không thể đánh giá đúng được sự tăng trưởng tiền tệ và tín dụng của các nước này, cũng như các luồng vốn đầu tư quá mức, thì khả năng thanh toán bị đẩy lên và sự tiền tệ hóa các nền kinh tế này đã dẫn đến sự gia tăng trong hoạt động cho vay của các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nguy cơ đổ vỡ ngày càng tăng của khu vực tài chính đã không được phát hiện trong thời gian bùng nổ cho vay vì mức tăng trưởng trong các danh mục cho vay của các ngân hàng đã đem lại những khoản lợi nhuận khổng lồ và ngày càng tăng.
Chính phủ các nước Đông Á quá tập trung vào xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế nóng gây nên tình trạng tăng trưởng không bền vững và tạo ra hiện tượng “bùng nổ” các khoản nợ nước ngoài
Trong nhiều thập kỷ, các nước này đã hướng vào mục tiêu tăng cường xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích các nhà xuất khẩu bằng các hình thức như cấp tín dụng trực tiếp, rót các khoản cho vay và miễn thuế. Các công ty này đòi hỏi phải có những nguồn lực to lớn để liên tục nâng cấp công nghệ và duy trì tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khoản lợi nhuận tạo ra sau thuế là không đủ để duy trì một chiến lược đầy tham vọng như vậy, trong khi thị trường vốn lại chưa phát triển đầy đủ, kết quả là các công ty phải vay quá nhiều để trang trải và phát triển. Nhờ những khoản vay này đã tạo nên nguồn lực cho các công ty tạo ra tốc độ tăng trưởng cao nhờ những bước tiến lớn về mặt công nghệ, năng suất và mức sống được cải thiện rõ rệt so với trước.
Chiến lược trên đòi hỏi có sự hợp tác giữa chính phủ, ngân hàng và công ty. Nhưng từ những năm 90, các chính phủ châu Á đã thực hiện tháo bỏ một cách căn bản việc điều tiết về mặt tài chính, dỡ bỏ và nới lỏng sự kiểm soát về vay nước ngoài của các công ty, từ bỏ sự điều tiết và quản lý trong việc đầu tư và đi vay và thất bại trong việc tăng cường giám sát các ngân hàng. Sau khi những hạn chế về vay nước ngoài được nới lỏng, các công ty trong nước nhận ra các khoản cho vay chi phí thấp của các nhà đầu tư nước ngoài nên đã tăng cường đi vay để đầu tư cho mình (vì cả người đi vay và người cho vay đều tin vào tính ổn định của nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tỉ giá hối đoái được duy trì). Tỉ lệ nợ, ở các công ty này, do vậy đã tăng lên hết sức nhanh chóng, chủ yếu là nợ nước ngoài của tư nhân và ngắn hạn. Tỉ lệ nợ cao khiến khu vực công ty dễ bị tổn thương trước nhưng cơn sốt là kết quả tất yếu của chiến lược tăng trưởng và hệ thống tài chính của Đông Á.
Trong khi đó mô hình đầu tư đã qua nhiều thay đổi. Vào những năm 1980, sự tăng vọt về đầu tư chủ yếu hướng vào các hàng hóa có thể xuất khẩu được, mang lại lợi ích thiết thực cho quốc gia nhưng vào những năm 1990, hầu hết vốn đầu tư được chuyển sang các hàng hóa không thể xuất khẩu được, đặc biệt là bất động sản và kết cấu hạ tầng. Các tập đoàn cũng không ngừng dùng những khoản tiền sẵn có và vay được để đầu tư chéo nhau, làm cho khoản đầu tư tài chính ngày càng lớn hơn. Do vậy, một phần lớn nguồn tín dụng được các công ty cho vay chảy vào thị trường bất động sản và chứng khoán, kích thích bong bóng bất động sản và chứng khoán ngày một to ra. Chính vì xa rời lĩnh vực kinh doanh, lại dùng tiền vay được chạy theo thị trường đầu tư vào những lĩnh vực hứa hẹn lợi nhuận cao, có thời gian thu hồi vốn lâu và đầy bất trắc (như các dự án bất động sản, đầu tư tài chính) đã khiến hiệu quả kinh doanh thực chất của các công ty ngày một giảm sút trong khi tỉ lệ nợ ngày càng tăng lên.
Hơn thế, sự yếu kém trong khâu quản lý, cũng như mối quan hệ thoải mái giữa các chủ ngân hàng và các khách hàng là các công ty cũng là một nguyên nhân khiến tỉ lệ nợ cao và khả năng sinh lời thấp. Việc quản lý Nhà nước thiếu quan tâm đến kỉ luật thị trường được tạo ra một phần bởi những sai lầm về mặt chính sách và chủ nghĩa lạc quan, đã khiến những mối quan hệ không lành mạnh giữa chính phủ và ngân hàng, giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng thể hiện rõ. Đã có nhiều điểm yếu về cơ cấu trong các nền kinh tế Á châu. Đồng thời, các quan chức chính phủ đã dùng tín dụng ngân hàng như công cụ của chính sách công nghiệp. Ở nhiều nước Đông Á, có một áp lực chính trị nhằm cung cấp khoản vay cho các hãng được ưu đãi, cũng như những mối quan hệ tốt với các ông chủ ngân hàng hay chính phủ bảo đảm cho công ty các khoản vay một cách dễ dãi mà ít quan tâm tới việc rủi ro hay tỉ suất sinh lời thấp của dự án đầu tư.
Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định rằng khoản cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn thấy quan hệ gần gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng trưởng khá, lượng vốn nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có thể không đảo được nợ hay vay mới khi các khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn.
Tỉ lệ nợ không lành mạnh và khả năng sinh lời giảm dần là hai yếu tố khi kết hợp với nhau sẽ rất nguy hiểm. Tỉ lệ nợ cao dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hơn, và vì kinh doanh kém hơn, các công ty dựa vào mối quan hệ với các ngân hàng lại tiếp tục vay thêm tiền để trang trải chi phí. Các ngân hàng vì tin tưởng vào chính sách bảo lãnh ngầm của chính phủ và viễn cảnh tăng trưởng kinh tế nên tiếp tục duy trì các khoản nợ xấu và cấp thêm tín dụng cho các công ty này, đẩy tỉ lệ nợ ngày một cao hơn. Không phải tất cả các công ty có tỉ lệ nợ cao đều làm ăn không hiệu quả, nhiều công ty tăng trưởng nhanh và có lợi nhuận cao hơn. Nhưng việc các công ty đi vay quá nhiều tiền so với tiền thu được cũng có nghĩa là một phần lớn lợi nhuận sẽ được dùng để chi trả tiền lãi.
Cán cân thâm vãng lai hụt lớn và cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đổ vào trong nước không hợp lý.
Đây là nguyên nhân quan trọng nhất gây mất ổn định hệ thống tài chính tiền tệ. sự sụt giảm giá trị hàng xuất khẩu và nền kinh tế giảm sức cạnh tranh, nhưng hàng nhập khẩu lại tăng nhất là hàng xa xỉ (đặc biệt là Thái Lan). Cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào các nước chịu khủng hoảng nặng có sự mất an toàn cao do khối lượng nợ lớn tăng nhanh chủ yếu là vốn ngắn hạn (vốn vay thời hạn dưới một năm chiếm tới 70% tổng số nợ khu vực tư nhân tại Thái Lan và Indonexia). Mặt khác vốn huy động gián tiếp qua thị trường chứng khoán tăng nhanh trong khi dự trữ quốc gia không cao, vì kim ngạch xuất khẩu giảm dần, nghĩa là có sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài (mà nguồn này lại chủ yếu dùng đầu tư bất động sản) dẫn tới cung tiền vượt quá cầu tiền tình trạng nợ đọng ra tăng và việc mua vét ngoại tệ để trả đáo hạn là không thể tránh khỏi.
Các hoạt động của quá trình tự do hóa thương mại hầu hết được phản ánh trong các hạng mục của cán cân vãng lai, đặc biệt là cán cân thương mại. Một khi hàng rào phi thuế quan bị dỡ bỏ, khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai sẽ phụ thuộc chủ yếu vào tình trạng cán cân thương mại, đặt biệt đối với các nước đang phát triển. Cán cân thương mại một quốc gia sẽ thâm hụt hay thặng dư phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất nhập khẩu hay là giá quốc tế của hàng hóa xuất nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách lãi suất, chính sách thương mại của chính phủ. Khi cán cân thương mại gây ra thâm hụt cán cân vãng lai một cách trầm trọng, triền miên thì hậu quả làm gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài, dễ bùng phát khủng hoảng cán cân vãng lai. Như vậy tự do hóa thương mại có tác động đáng kể lên cán cân thương mại và cán cân vãng lai, có thể gây nên thâm hụt hay thặng dư qua đó gây ra sự lên giá của đồng bản tệ và tăng gánh nợ nước ngoài gây ra thiệt hại khác nhau cho ngân sách. Mức thâm hụt lâu dài với mức độ lớn dễ gây ra khủng hoảng cán cân vãng lai, nguy hại tới an ninh tài chính quốc gia.
Sự thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước Đông Á ngày càng trầm trọng. Như ở Thái Lan, trong suốt những năm 1991-1996, cán cân thương mại của nước này luôn bị thâm hụt, tổng cộng là trên 35 tỉ USD và có xu hướng tồi tệ hơn. Thâm hụt tài khoản vãng lai của riêng năm 1996 đã lên đến 14,7 tỉ USD. Điều này xảy ra với các nước Đông Á khi xuất khẩu bị kìm hãm. Có thể giải thích sự đi xuống của xuất khẩu các nước Đông Á bởi 4 nguyên nhân:
Thứ nhất, như đã phân tích ở nguyên nhân đầu tiên, việc các quốc gia Đông Á duy trì tỉ giá cố định quá lâu làm cho đồng nội tệ của các nước này lên giá một cách giả tạo so với đồng USD và lãi suất của đồng bản tệ cao hơn USD. Việc lên giá của đồng nội tệ đã khiến giá hàng xuất khẩu trở nên mắc mỏ, vì vậy đã khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
Thứ hai, tăng trưởng thương mại thế giới suy giảm mạnh. Từ mức cao kỉ lục trong năm 1995, tăng trưởng xuất khẩu thế giới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khùng hoảng Đông Á 1997- nguyên nhân sâu xa từ phía quản lý Nhà nước.docx