LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: DIỄN BIẾN 2
1. Giai đoạn phát triển thần kì 1992 - 1998 2
2. Những dấu hiệu bất ổn – Khủng hoảng xảy ra: 3
3. Khủng hoảng Argentina 2001-2002 (giai đoạn sau 2001) 4
PHẦN II: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG ARGENTINA 6
I. Nguyên nhân nội tại 6
1. Hệ thống chuẩn tiền tệ currency board: 6
2. Thâm hụt ngân sách quá lớn: 8
3. Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm: 9
II. Ảnh hưởng từ bên ngoài 11
1. Các tổ chức tin dụng quốc tế (IMF) 11
2. Các quốc gia các 12
PHẦN III: KẾT LUẬN 14
I. Phạm vi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Argentina: 14
1. Khu vực Mỹ – Latin: 14
2. Thế giới 14
II. Nguy cơ khủng hoảng tại Việt Nam: 15
1. Tỷ lệ vay nợ nước ngoài (<40% GDP). 15
2. Cơ chế giám sát các khoản vay nước ngoài 16
3. Bộ máy quản lý: Giải quyết tham nhũng, cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát 16
III. Bài học kinh nghiệm: 17
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5305 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng kinh tế Argentina (1999 - 2002), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rạng nợ nước ngoài lớn, lạm phát lên tới 200%/tháng và năng suất giảm mạnh. Để vượt qua khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã thực hiện các biện pháp sau:
1. Ngày 1/4/1991, quốc hội Argentine thông qua “ currency board”. Điều luật này cho phép thành lập hội đồng tiền tệ với nhiệm vụ chính nhằm duy trì tỷ giá giữa peso với USD, và giới hạn việc in ấn đồng peso xuống mức cần thiết cho việc mua dollar trên thị trường tiền tệ
2. Xây dựng hệ thống tiền tệ kép (bi-monetary) đảm bảo vai trò ngang nhau giữa đồng peso với ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Người dân Argentina có quyền trả bằng bất kỳ đồng tiền nào trong các giao dịch của mình.
3. Tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa gần như tất cả các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít các tổ chức tài chính trung bình và lớn cho nước ngoài.
4. Tự do hóa hoàn toàn việc luân chuyển tư bản - cả tài chính lẫn đầu tư trực tiếp - mà không có bất kỳ hạn chế nào.
5. Tư nhân hóa các công ty nhà nước từ công ty hàng không đến công ty điện và Bưu điện, trong khi nước này chưa hề có một hệ thống luật lệ mạnh và đầy đủ.
6. Loại bỏ gần như tất cả các hàng rào phi thuế quan, và cắt giảm thuế từ trung bình 45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000.
Với 3 giai đoạn cải cách 1991. 1995, 1998, thị trường việc làm linh hoạt ở nước này đã được cải thiện đáng kể, điển hình là số lượng công nhân được kí kết hợp đồng và được dào tạo tăng từ 6% năm 1995 lên 12% năm 1997.Năng suất lao động trung bình tăng 3% từ 1991-1998.GDP tăng trưởng từ mốc giảm liên tục 0.5% trong suốt những năm 1980 đã bật mạnh mẽ lên tới hơn 10% trong 2 năm đầu tiền của chính sách cải cách và 5% năm 1993-1994.
Kết quả: lạm phát giảm đáng kể, ổn định giá được đảm bảo, và giá trị của tiền tệ được bảo tồn.
Những yếu tố đó khiến Argentina được ngợi khen như là một điển hình của sự thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF thừa nhận.
Những dấu hiệu bất ổn – Khủng hoảng xảy ra:
Cuối những năm 90, chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài, các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001).
Cuối thập kỷ 90, đồng dollar Mỹ tăng giá dẫn đến việc đồng peso cũng tăng giá theo so với đồng tiền các nước đối tác thương mại nước này, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Argentina
Năm 1994 khủng hoảng đồng peso Mexico làm ảnh hưởng đến nguồn vốn, mất nguồn tiền gửi ngân hàng, và khủng hoảng nghiêm trọng trong thời gian ngắn; một loạt chính sách cải cách để nâng đỡ hệ thống ngân hàng trong nước được đưa ra. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế được phục hồi nhanh chóng, đạt 8% vào năm 1997.
Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các nước đang phát triển trên thế giới
Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.
Năm 1999 Brazil buộc phải phá giá đồng real 29% làm ảnh hưởng rất lớn đến Argentina vì đây là nước xuất khẩu chủ yếu của Argentina.
Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong chi tiêu ngân sách.
Tháng 12 năm 1999, chính phủ đã tăng thuế và cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt, làm GDP ở mức 2,5% năm 1999.
Tăng trưởng năm 2000 càng trở nên tồi tệ ở mức 0,8%. Cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều hoài nghi về khả năng trả nợ của chính phủ và giữ tỷ giá cố định theo đồng USD.
3. Khủng hoảng Argentina 2001-2002 (giai đoạn sau 2001)
Hệ thống ngân hàng Argentina sụp đổ vào vào tháng 12/2001, nhấn chìm một trong những trung tâm kinh tế năng động và thành công nhất tại khu vực Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một đêm, đất nước này rơi vào cảnh đói nghèo. Tình cảnh sau đó hết sức hỗn độn. Chỉ trong vòng 2 tuần, có tới 5 vị Tổng thống lên và xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức xuống đường biểu tình. Chính quyền Argentina cho rằng thủ phạm là các chính sách mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới áp dụng tại đây từ những năm 1990. Kể từ đó đến nay, giới lãnh đạo nước này đi theo một đường lối tài chính độc lập và đã phục hồi đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn một chặng đường xa để Argentina đạt được sức mạnh như họ đã từng có.
Diễn biến:
Năm 2000, Argentina thông báo kế hoạch cắt giảm chi tiêu và tìm kiếm sự giúp đỡ từ IMF
Tháng 11/2001, người dân Argentina hoài nghi đã rút 1,2 tỷ USD từ tài khoản ngân hàng
Cuối năm 2001 IMF ngừng cấp các khoản cho vay. Argentina tuyên bố phá sản ngay sau đó. Cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục người chết.
Tháng 12/2001, Chính Phủ ra hạn mức rút tiền là 1000 USD/tháng. Thay các khoản tiền gửi bằng trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm
Tháng 1/2002, thả nổi tiền, Peso mất giá 29%, USD/peso = 1,4
Tháng 2/2002, USD/peso=2,6 người dân Argentina rút 100 triệu USD khỏi ngân hàng mỗi ngày. Chính Phủ phải ra hạn mức rút tiền mới là 500 USD/tháng
Tháng 3/2002, tài sản ngân hàng được chuyển đổi sang đồng Peso, các ngân hàng lỗ khoảng 10-20 tỷ USD. USD/peso=3,75, các ngân hàng bắt đầu thiếu tiền mặt
Tháng 4/2002, các ngân hàng được yêu cầu đóng cửa vô thời hạn
PHẦN II: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG ARGENTINA
Nguyên nhân nội tại
Hệ thống chuẩn tiền tệ currency board:
Theo TS. Quách Mạnh Hào, một currency board tồn tại khi NHTW một quốc gia cam kết hỗ trợ tiền tệ quốc gia, mức cung tiền, bằng dự trữ nước ngoài tại mọi thời điểm.
Về cơ chế vận hành của currency board như sau: cấm không cho phép NHTW phát hành các khoản nợ - tiền có quyền lực cao (high-power money) - nếu như không được bảo đảm hỗ trợ 100% bằng lượng dự trữ ngoại tệ tương đương. Hệ thống này chỉ cho phép NHTW phát hành thêm một lượng tiền tương ứng với lượng ngoại tệ vừa mới bổ sung. Do đó, giá trị đồng tiền luôn được bảo đảm và đồng thời cũng giúp kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, currency board khác với hệ thống “tỷ giá cố định” (fixed exchange rate system). Bởi vì, “tỷ giá cố định” mặc dù cũng duy trì giá trị đồng tiền như currency board nhưng lại không có độ tin cậy cao, nói là “tỷ giá cố định” nhưng thật ra đồng tiền cũng có khả năng bị phá giá. Còn currency board thì không như vậy, nó luôn giữ đúng tỷ giá trao đổi đã được ấn định trước đó. Do đó, currency board luôn đạt được sự tin tưởng cao từ các nhà đầu tư.
Với việc áp dụng currency board, Argentina đã đạt được những thành công bước đầu
Khống chế lạm phát: việc giữ cố định tỉ giá làm hạn chế lượng cung tiền bởi chính phủ phải giữ cân bằng lượng cung tiền peso và lượng USD có trên thị trường. Thực tế chính sách này thực sự có hiệu quả trong kiềm chế lạm phát từ năm 1991 đến năm 1994 .
Cuộc sống của người dân được nâng lên, giá cả ổn định, người dân có thể vay nợ bắng đồng dollar với mức lãi suất thấp.
Việc cố định tỉ giá cũng khiến Argentina thu hút và giữ chân được các nhà đầu tư do lãi suất ngân hàng được đảm bảo bởi chính sách neo tỉ giá vào đồng USD, nhà đầu tư nước ngòai có thể yên tâm rằng trong tương lai không phải lo lắng về sự biến động tỷ giá.
Tuy nhiên, những nhược điểm của nó được bộc lộ thời gian không lâu sau đó:
Đầu tiên, là việc NHTW không thể tự chủ trong chính sách tiền tệ. Nguyên nhân là do lãi suất của đồng nội tệ phải đúng bằng lãi suất của đồng ngoại tệ, nếu không hoạt động arbitrage sẽ xảy ra. Do đó, NHTW không thể giảm lãi suất để kích thích đầu tư hoặc tăng lãi suất để kiềm hãm lạm phát.
Thứ hai, currency board có khuynh hướng khuyến khích các nhà đầu tư trong nước kinh doanh quốc tế vay nợ bằng ngoại tệ mà không hề có bất cứ biện pháp phòng ngừa rủi ro nào cả, dẫn đến vay nợ quá mức. Chính vì vậy mà khi khủng hoảng xảy ra, các nhà đầu tư này sẽ là những người chịu thiệt hại lớn nhất.
Thứ ba, NHTW không thể thực hiện chức năng là người cho vai cuối cùng (nguyên nhân là do hệ thống currency board quy định không cho phép ngân hàng phát hành tiền nếu không có lượng ngoại tệ tương ứng bổ xung). Do đó, khi khủng hoảng niềm tin xảy ra, NHTW không thể cung cấp cho các NHTM những khoản vay ngắn hạn được, làm cho các NHTM này không thể chi trả các khoản nợ sắp đáo hạn cho khách hàng. Cuối cùng, tất yếu là hệ thống ngân hàng sẽ sụp đổ.
Thứ tư, do không thể in thêm tiền và dự trữ ngoại tệ ngày càng ít đi nên ngân sách chính phủ sẽ bị thâm hụt nghiêm trọng. Chính vì vậy, chính phủ Argentina phải bù đắp thăm hụt ngân sách bằng các khoản vay nợ từ nước ngoài. Điều này làm cho tình trạng nợ nước ngoài của Argentina ngày càng gia tăng.
Thứ năm, chính sách currency board làm cho hàng hoá xuất khẩu ngày càng tăng lên (do đồng đôla tăng giá) và hàng nhập khẩu ngày càng rẻ đi. Do đó, hàng trăm doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước ngoài, buộc phải dẫn đến phá sản.
Thứ sáu, việc đôla hoá nền kinh tế đã tạo ra một hệ thống “tiền tệ kép” (bimonetary system), cho phép người dân tự do quy đổi từ Peso sang đôla một cách dễ dàng. Điều này đã làm cho một lượng lớn ngoại tệ “chảy” ra nước ngoài (nguyên nhân là từ những chuyến du lich, nghỉ mát, mua hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ từ nước ngoài), dẫn đến dự trữ ngoại tệ trong nước bị giảm sút.
Thâm hụt ngân sách quá lớn:
Theo những số liệu chính thức của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ Nợ/GDP tăng trưởng đều đặn kể từ năm 1993 và có bước đột phá đáng kể từ sau năm 1998. Tuy nhiên những số liệu thực tế này đã đánh giá thấp những món nợ này trong suốt nửa đầu của những năm 90 có nghĩa là những con số này trên thực tế còn cao hơn và sự tăng trưởng của chúng cũng có ít tác dụng tích cực trong giai đoạn này. Ngoài ra, một phần của các khoản nợ sau năm 1995 phản ánh quá trình cải cách hệ thống lương hưu (Cải cách lương hưu sang hệ thống tự tài trợ làm giảm nợ cho chính phủ vì ko phải trả lương hưu cho người dân)
Do đó, yếu tố khủng hoảng thứ hai của Argentina gắn liền với việc chính phủ của Tổng thống Carlos Menem trong nhiệm kỳ thứ hai của mình đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài. Đương nhiên mọi lý lẽ lúc bấy giờ đều được lý giải khá hợp lý. Cứ như thế các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001)
Việc chính phủ mắc nợ nhiều đã làm lãi suất trong nước gia tăng (tăng lãi suất để bù đắp ngân sách). Nhiều công ty trong nước đã phải đóng cửa vì tín dụng cho sản xuất, kinh doanh trở nên quá khả năng thanh toán. Sự thâm hụt ngân sách quá lớn tạo ra tình trạng lo sợ rằng chính phủ sẽ mất khả năng trả nợ. Chính phủ gặp khó khăn trong việc khuyến khích mọi người mua trái phiếu của mình và không thể tài trợ bằng các khoản cho vay nước ngoài; để xử lý vấn đề khó khăn về ngân sách, chính phủ buộc các ngân hàng phải mua một lượng lớn trái phiếu. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào khà năng của chính phủ trong việc hoàn trả các khoàn nợ, thì giá của chúng giảm xuống, tạo nên một lỗ hổng lớn trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại. Sự suy yếu như vậy trong bảng tổng kết tài sản làm ngân hàng có ít nguồn lực để cho vay và tình hình thiếu vốn cho vay góp phần tạo ra sự thu hẹp trong hoạt động kinh tế.
3. Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm:
Sai lầm đầu tiên của chính phủ Argentina là việc tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa hoàn toàn gần như tất cả các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít tổ chức tài chính trung bình và lớn cho nước ngoài. Hệ thống ngân hàng tiềm ẩn những yếu kém đã làm suy yếu dần khả năng chống chịu trước những cú sốc, và cả chế độ tỷ giá cố định 1 peso đổi 1 đô la. Trước hết, các ngân hàng hoàn toàn thiếu những quy định được quy định rõ ràng để phòng ngừa những hậu quả lên khả năng thanh toán của khu vực phi mậu dịch của việc điều chỉnh tỷ giá thực dẫn tới không cân bằng. Do không có sự mất giá danh nghĩa, điều chỉnh này sẽ dẫn tới thời kỳ lạm phát danh nghĩa và thất nghiệp chậm chạp. Thứ hai, hệ thống tài chính ngày càng tư nhân hóa và trở nên quá yếu đuối trước tình trạng khủng hoảng nợ nước ngoài không thể kiểm soát được. Thứ ba, những biện pháp bảo vệ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng cho phép bất cứ người gửi tiền nào rút tiền, cho thấy sự không phù hợp của hệ thống thanh toán khi tình trạng rút tiền ồ ạt xảy ra.
Thứ hai, đó là việc tự do cho luân chuyển tư bản - cả trực tiếp và gián tiếp - mà không có bất kỳ hạn chế nào, dẫn đến việc ngoại tệ bị “bay hơi” do những chi tiêu mua sắm của người dân ở nước ngoài, và tiêu dùng hàng xuất khẩu.
Thứ ba, tư nhân hóa các công ty nhà nước, từ công ty hàng không đến công ty điện và bưu điện, trong khi Argentina không hề có luật lệ mạnh và đầy đủ, dẫn đến nguồn thu ngân sách của chính phủ không có gì ngoài thuế, không thể tự chủ trong thu – chi ngân sách. Làn sóng tư hữu hóa trong những năm 1990, dưới thời tổng thống Menem, đã làm nhiều người mất việc. Và do phần lớn các công ty tư nhân hóa thuộc lĩnh vực dịch vụ nhu yếu như cung cấp điện, nước... nên các công ty này đẩy giá cả các mặt hàng dịch vụ của mình cao hơn. Cuộc khủng hoảng của Argentina trở nên trầm trọng khi nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản và ngày càng có thêm nhiều người bị sa thải. Các khoản nợ của chính phủ cũng theo đó gia tăng vì thất thu từ nguồn thuế thu nhập đánh vào doanh nghiệp. Trong khi đó Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khẳng định mình sẽ không giúp Argentina thoát khỏi khủng hoảng bằng cách chi trước những khoản tiền vay đã được thông qua để nước này thanh toán nợ.
Thứ tư, loại bỏ gần như hàng rào thuế quan và cắt giảm thuế xuất khẩu từ trung bình 45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000. Khi đồng USD lên giá, nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu giảm cùng đó là khoản nhập khẩu tăng liên tục, và mọi thứ đều dần bộc lộ. Bên cạnh đó, chính sách Hội đồng tiền tệ làm cho hàng hoá xuất khẩu ngày càng mắc lên do đồng đôla tăng giá và hàng nhập khẩu ngày càng rẻ đi. Do đó, hàng trăm doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước ngoài, buộc phải dẫn đến phá sản
Ảnh hưởng từ bên ngoài
Các tổ chức tin dụng quốc tế (IMF)
Trong suốt những năm 90, Argentina trở thành một của tổ chức quốc tế, đặc biệt đối với IMF. Đây được coi như hình mẫu cho các nền kinh tế mới nổi noi theo. Tổ chức Tiền tệ thế giới đã ủng hộ cho các chính sách kinh tế vĩ mô các cải cách quan trọng trong nền kinh tế (tự do hóa thị trường tài chính, tư nhân hóa, cải cách hệ thống tiền lương…) của chính phủ Argentina. Ban đầu, IMF có chút hoài nghi về quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, bằng chứng về việc Argentina đã vượt qua được khủng hoảng Tequila (tên gọi khác của khủng hoảng Mexico) đã thuyết phục các nhà chức trách của IMF. Bất chấp những con số cho thấy kinh tế tăng trưởng bền vững , một phần lớn người dân ko được hưởng lợi từ những thành quả của nền kinh tế: trong suốt những năm 90, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tỷ lệ người nghèo vẫn duy trì ở mức cao và sự bất bình đẳng trong xã hội ngày một trầm trọng. Điều này cho chúng ta thấy những con số đó đã được đánh giá quá cao so với giá trị thật của nó, đây cũnng là một trong những nguyên nhân khiến cho chính phủ Argentina chủ quan vào những chính sách của mình trong suốt những năm 90.
Khi Argentina lâm vào khủng hoảng, tháng 11/2000 IMF hợp tác WB , IDB thông qua chương trình hỗ trợ với quy mô lớn, tên gọi “el blindaje”. IMF đồng ý cho Argentina vay tiền với điều kiện nước này phải thắt chặt các chính sách tài chính, như không để tham hụt ngân sách và nâng lãi suất. “Blindaje” - chương trình được thiết kế đặc biệt với mục đích làm giảm sự lan truyền của khủng hoảng và kích thích tăng trưởng đã thất bại. Xác suất thành công vô cùng thấp, tỷ lệ vẫn duy trì ở mức ban đầu. Cụ thể : chương trình chỉ hoạt động hiệu quả trong 2 tháng, sau đó bắt đầu đi xuống. Những chính sách của chương trình này dẫn đến những cuộc biểu tình và đình công khắp quốc gia.
Vào cuối năm 2001, khi tình hình đất nước đang vô cùng khó khăn với dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ còn đúng 2 tỷ. Để tăng ngân sách, Tổng thống de la Rua quyết định người dân chỉ được rút tối đa 1000 đô la một tháng. Ngay sau đó, IMF đã quay lưng lại với Argentina, tuyên bố ngừng cấp các khoản cho vay mới với lý do chính phủ nước này không đáp ứng được các đòi hỏi tài chính. Điều này đã khiến cho Argentina tuyên bố phá sản. Cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục nghìn người chết
Các quốc gia các
Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các nước đang phát triển trên thế giới
1- Mỹ: Vào những năm 90, nền kinh tế Mỹ đã có thời kỳ phát triển liên tục và kéo dài nhất trong lịch sử của mình:
Tỷ lệ lạm phát thấp: trung bình khoảng 2.5%/năm (ngoại trừ năm 1990 là 5%/năm).
Tỷ lệ thất nghiệp thấp: 21 triệu việc làm mới được tạo ra từ 1990-2000.
Tỷ lệ tăng trưởng trung bình gần 4%/năm.
Thâm hụt ngân sách giảm từ 1993-1997 và từ năm 1998-2001 có thặng dư ngân sách.
Với sự phát triển của mình, Mỹ là quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài lớn dẫn đến đồng USD tăng giá . Để giữ tỷ giá cố định, Chính phủ Argentina đã buộc phải dùng dữ trữ ngoại hối để mua đồng peso vào và bán đồng USD ra; đồng thời phải tăng lãi suất của đồng peso để hạn chế rút tiền của người dân. Hành động đó của Chính phủ Argentina đã đẩy đồng peso tăng giá theo dẫn đến 1 loạt các hệ qủa: tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu giảm; lãi suất cao hạn chế việc đầu tư giảm phát xuất hiện.
2 - Mêhico : Mêhico đã phá giá đồng tiền của mình vào năm 1994 với cuộc khủng hoảng tequila cũng đã tác động đến Argentina. Các ngân hàng của Argentina phải đối mặt với tình trạng rút tiền lớn từ các tài khoản đồng peso và Chính phủ đã phải để cho một số ngân hàng phá sản. Tuy Argentina đứng vững mặc dù GDP giảm 4% nhưng điều đó đã phản ánh sự thiếu niềm tin vào cơ chế Hội đồng tiền tệ (currency board).
3- Brazil : Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.
Vào năm 1999, Brazil đã phá giá đồng real 29%. Do tỷ giá USD/Peso cố định nên sau khi đồng USD tăng giá so với đồng real thì đồng peso cũng tăng giá so với đồng real. Trong khi Argentina là nước xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu mà Brazil lại là đối tác chính yếu của Argentina, việc tăng giá đó đã làm tính cạnh tranh của xuất khẩu suy giảm dẫn đến lượng hàng xuất khẩu vào Brazil giảm làm cho nguồn thu ngoại tệ của Argentina giảm đáng kể.
PHẦN III: KẾT LUẬN
I. Phạm vi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Argentina:
1. Khu vực Mỹ – Latin:
Tổng thống Brazil Fernando Henrique Cardoso khẳng định, cuộc khủng hoảng kinh tế tại Argentina - đỉnh điểm là việc Tổng thống Fernando de la Rue xin từ chức - sẽ chỉ dừng lại trong phạm vi lãnh thổ đất nước này, không đủ mạnh để lan sang các quốc gia trong khu vực.
Các nhà kinh tế cho rằng, tính chất cuộc khủng hoảng tại Argentina hoàn toàn khác so với những gì đã xảy ra ở Mexico và Brazil năm 1999. Hai ông Ricarfo Lagos - Tổng thống Chile và Pedrro Pablo Kuczynski - Bộ trưởng Thương mại Peru nói rằng các nền kinh tế Mỹ Latin đã tách biệt khỏi Argentina và cuộc khủng hoảng tại đất nước này, vì thế, sẽ “không đáng lo ngại”.
2. Thế giới
Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng, khủng hoảng đem lại hậu quả rất xấu đối với Argentina, nhưng tác động ra thế giới bên ngoài thì không đáng kể.
Theo các chuyên gia kinh tế, chỉ có Tây Ban Nha và Nam Phi, nơi có nhiều công ty có quan hệ làm ăn lớn với Argentina, chịu tác động một phần của cuộc khủng hoảng kinh tế. Các nhà đầu tư trên thế giới vẫn tỏ ra lạc quan trước những cuộc bạo động ở Argentina do ảnh hưởng của nó với các thị trường lớn là rất khiêm tốn. Cụ thể:
- Cổ phiếu của các ngân hàng Tây Ban Nha - một chủ nợ lớn của Argentina - vào thời điểm đó sụt giá mạnh nhất. Đồng rand của Nam Phi cũng giảm xuống mức lịch sử so với USD, bảng Anh và euro.
Argentina là con nợ lớn nhất tại Mỹ Latin với khoản vay nước ngoài lên tới 132 tỷ USD. Điều này khiến cho các tổ chức tài chính quốc tế, như IMF và WB, đều tỏ ra thận trọng trong việc bơm thêm tiền cho Chính phủ Argentina.
II. Nguy cơ khủng hoảng tại Việt Nam:
Tỷ lệ vay nợ nước ngoài (<40% GDP).
Theo WB, ngưỡng an toàn đối với các nước đang phát triển là tỉ lệ nợ nước ngoài phải dưới 40%/GDP
Tỉ lệ nợ nước ngoài của VN thể hiện ở bảng sau:
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng nợ(tỷ USD)
11.8
11.9
11.8
13.3
16.7
18.9
22.2
20.0
% GDP
39.0
37.4
34.0
34.1
36.8
35.8
36.6
37.2
(Nguồn: “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 và nhiệm vụ năm 2007” của Chính phủ)
Theo tiêu chí đánh giá quốc tế, các chỉ số phản ánh khả năng trả nợ của Việt Nam đều ở dưới mức lo ngại. Nhưng nếu tính đến lãi suất phải trả và cả việc đồng Việt Nam có khả năng mất giá trong tương lai thì số thực nợ phải trả là không hề nhỏ, nó không thể lạc quan thái quá như việc một số quan chức Chính phủ cho rẳng tỉ lệ nợ vẫn ở mức an toàn. Vì nghĩa vụ thanh toán nợ bằng nguồn của ngân sách nhà nước (NSNN) đối với các khoản nợ của Chính phủ sẽ lớn dần khi các khoản vay đến hạn phải trả nợ gốc.
Đối với nước ta, trong cơ cấu nợ Chính phủ là “con nợ” lớn nhất với tỉ trọng trung bình là 65,4%, kế đến là các DNNN và cuối cùng là các doanh nghiệp FDI.The problem with Argentine fixed exchange rate was it caused the peso to increase in value at the same rate as the dollar during the economic boom of the 1990's. A rising currency value caused Argentina's exports to become more expensive relative to the country's imports. Since Argentina's largest trading partners are Brazil and the European Union, whose currencies were valued much lower than the peso, the Argentine export market was stalled limiting the growth of the economy.Vậy dựa vào đâu để tin tưởng ở khả năng trả nợ nước ngoài của quốc gia? Bài học từ Argentina đã chỉ rõ chắc chắn là không thể dựa vào sự tín nhiệm của quốc tế, đơn giản là sự tín nhiệm này chỉ giúp Chính phủ dễ vay nợ mà thôi. Thậm chí khi các nhà tài trợ quốc tế chỉ mới “đánh hơi” thấy một chút bất ổn về kinh tế của con nợ, họ có thể ra tay thật mạnh để đẩy nhanh tiến trình khủng hoảng nợ.
Cơ chế giám sát các khoản vay nước ngoài
Thực tế ở nước ta, giám sát, kiểm tra, kiểm toán là khâu yếu, kể cả nơi có quyền giám sát cao nhất nước là Quốc hội.
Việt Nam hiện nay rất lãng phí trong việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của việc này có thể là do khâu quản lý còn thiếu hiệu quả hoặc có thể do tình trạng bòn rút của công, tham nhũng trong nội bộ cơ quan chính phủ, v.v…
Bộ máy quản lý: Giải quyết tham nhũng, cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát
Về vấn đề tham nhũng của Việt Nam, theo chỉ số tham nhũng quốc tế mà Tổ chức Minh bạch quốc tế đã công bố thì Việt Nam là một trong những “thành viên” của nhóm nước có mức tham nhũng nặng nề nhất và khẳng định đây là “một trong những thách thức nghiêm trọng nhất mà Việt Nam phải đối mặt. Vì chống tham nhũng lẫn thực thi nhiệm vụ kế hoạch phải gắn kết thành một mục tiêu để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.
Về vấn đề cổ phần hóa: Mỗi năm có hàng trăm doanh nghiệp quốc doanh trên cả nước tiến hành cổ phần hóa (CPH). Để ngăn chặn nhiều thủ đoạn tham nhũng “tinh tế” trong quá trình CPH, Nhà nước có đặt ra nhiều qui định.Thế nhưng từ một số sơ hở, quá trình CPH vừa qua là quá trình thất thoát tài sản nhà nước mà nếu không có điều chỉnh, rất có thể tài sản nhà nước sẽ tiếp tục bị mất. Việc thất thoát hiện nay theo kiểu truyền thống là định giá tài sản của doanh nghiệp thấp hơn nhiều giá thực tế.Mua với giá rẻ mạt nhưng được hưởng phần lợi ích từ những doanh nghiệp nay vô cùng lớn. Trong chính sách CPH có qui định phải bán một phần cổ phiếu với giá ưu đãi cho những người trong nội bộ doanh nghiệp, như giám đốc được mua đến 30% .Trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang “nóng hôi hổi”, các nhà đầu tư sẵn sàng nộp trước tiền mua cổ phiếu, chỉ cần “nhận chỗ”, những kẻ có quyền mua đã “chớp” được một khoản chênh lệch không thể nói là nhỏ. Như vậy, đáng ra Nhà nước có thể bán thẳng cổ phiếu ra thị trường với giá cao, thì lại “tạo điều kiện” cho một số đối tượng mang danh người lao động “nẫng tay trên”. Tài sản nhà nước đang bị thất thoát với rất nhiều cách như vậy. Và dù là cách nào thì số tiền của quốc gia bị thất thoát trong quá trình CPH cũng không bao giờ nhỏ!...
Vì vậy nhà nước ta cần nhanh chóng ban hành những quy định trong định giá tài sản doanh nghiệp được cổ phần hóa, trong quyền được mua cổ phiếu ưu đãi trong nội bộ doanh nghiệp…
Các vấn đề nội bộ mà từ kinh nghiệm của Argentina, chúng ta cần phải chú ý giải quyết triệt để, đó là tình trạng tham nhũng, cổ phần hóa ào ạt và thất thoát, bộ máy hành thu thuế yếu kém, vay nợ nước ngoài thiếu tính toán. Nhưng vượt lên trên tất cả những điều này, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, chính là việc quốc gia thiếu cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài. Chừng nào chưa có cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài của chính ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khủng hoảng kinh tế ARGENTINA.doc