Tiểu luận Khủng hoảng nợ công Hy Lạp

Mức lương cao ở Hy Lạp không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách, nó còn làm cho tính cạnh tranh của nền kinh tế nước này yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi hơn 0,8 đô la Mỹ lên đến 1 euro đổi 1,6 đô la trong suốt giai đoạn từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu đi, và hệ quả tất yếu là một cán cân thương mại thâm hụt triền miên. Chi phí nhân công cao và tham nhũng tràn lan cũng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8792 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng nợ công Hy Lạp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ hiệp ước của khối. Ngay từ khi thành lập, Liên minh tiền tệ đã được xem là công cụ cho liên minh chính trị, nên các “sáng lập viên” chẳng hề quan tâm nhiều đến chuyện trừng phạt thành viên vi phạm quy chế chung. Năm 1996, khi thảo luận xem liệu có cần thiết có những công cụ trừng phạt những thành viên vi phạm hay không, Tổng thống Pháp Jacques Chirac và Thủ tướng Đức Helmut Kohl cho rằng nên dựa vào ý thức, và cuối cùng EU ủng hộ chủ trương này. EU cho rằng các quốc gia sẽ phải tự điều tiết lấy. Chính thái độ thờ ơ,bàng quan của EU trước những sai phạm của các nước thành viên như ngọn gió thổi vào khủng hoảng : “Ở thời điểm đó, đã có những bằng chứng rõ ràng cho thấy, Hy Lạp đưa ra những số liệu không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách, nhằm đưa ra hình ảnh về tình hình tài chính công của họ ‘đẹp’ hơn thực tế. Nhưng các nhà lãnh đạo châu Âu đã không phản đối. Vì lý do chính trị, họ phải cho Hy Lạp tham gia đồng Euro”, Giáo sư kinh tế học Jürgen von Hagen thuộc Đại học Bonn, Đức, cho biết. Chính sự thờ ơ, thiếu kiểm soát chặt chẽ này đã tiếp tay gây ra cuộc khủng hoảng. Ở thời điểm đó, EU có thể nhìn rõ mối nguy hiểm của buông lỏng quản lý và ra tay ngăn chặn. Các năm 2002, 2003, và 2004, ngay cả Đức và Pháp đã không tuân thủ được các điều khoản về thâm hụt ngân sách, tạo ra một tiền lệ nguy hiểm. Các nước lớn có thể vi phạm, tại sao các nước nhỏ lại ko? Điều này càng giảm đi tính kỷ luật của chính sách chung. Tới năm 2004, việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã rõ như ban ngày. EU đã mở cuộc điều tra đầu tiên nhằm vào tình trạng bội chi của Athens. Mặc dù Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) thu thập đủ bằng chứng về sự gian dối số liệu của Hy Lạp, nhưng các quan chức của châu Âu vẫn tuyên bố rằng, việc trục xuất Hy Lạp khỏi Khu vực đồng tiền chung euro không phải là lựa chọn của họ. Trên thực tế, chỉ có 2 trong số 16 quốc gia  thuộc Eurozone đáp ứng đầy đủ những tiêu chí này là Phần Lan và Luxembourg. Sự "vượt rào" tập thể này là một  trong những nguyên nhân chính khiến châu Âu trở thành đệ tử của "chúa chổm". Hiện tại, tổng giá trị nợ của khu vực sử dụng đồng euro chiếm 84% GDP của khối. Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức. Việc gia nhập vội vã của Hy Lạp đã bộc lộ những mặt trái của nó. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao. Theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách. Thiếu sót trong cơ cấu của Hiệp định Maastricht- Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính Trong điều kiện nền kinh tế không có khủng hoảng, việc duy trì cam kết giữ mức thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức 3% GDP và tổng nợ công không được vượt quá 60% GDP không gặp khó khăn gì đặc biệt. Nhưng khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2008, hầu hết các nước tham gia hệ thống đồng euro đã buộc phải phá rào trước cả hai điều khoản nói trên để cứu nguy ngành ngân hàng, và qua đó, cứu nguy nền kinh tế. Đặc biệt, đáng lo ngại là mức thâm hụt ngân sách của 4 nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ai Len, Hy Lạp đã lên tới 9-14%, vượt xa quy định của Hiệp ước Maastricht. Hy Lạp là mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền Euro. Trước khủng hoảng, nước này có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trong khối EU nhờ tập trung phát triển các ngành dịch vụ, ngân hàng, du lịch và địa ốc. Tuy nhiên, kinh tế ngầm chiếm tới hơn 30% GDP và sản xuất kém phát triển nên nước này luôn phải nhập siêu. Khủng hoảng nổ ra, nợ công lên tới 115% GDP (gấp đôi quy định của hiệp ước) và thâm hụt ngân sách quốc gia là 14% GDP (cao hơn quy định 3,5 lần). Khả năng thanh toán nợ của Chính phủ Hy Lạp bị nghi ngờ và các nhà đầu tư vội vã rút vốn khỏi Hy Lạp và không cho Chính phủ nước này vay thêm tiền. Việc cam kết giảm thâm hụt ngân sách về mức 3% được xem như bất khả thi do: thứ nhất, Hy lạp không thể hạ giá đồng euro để khuyến khích xuất khẩu, thứ hai là Chính phủ không thể tự ý điều chỉnh lãi suất cơ bản để vực dậy nền kinh tế. Nếu đứng ngoài khối euro, làm hai việc trên không khó đối với Hy Lạp. Đồng tiền chung hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát. Quy định này tạo nền tảng cho việc hình thành và ổn định đồng euro. Nhưng nó cũng mang lại nhiều thách thức cho các chính phủ do họ không thể sử dụng chính sách tiền tệ làm công cụ hữu hiệu để hỗ trợ kinh tế phát triển. Tuy nhiên, yếu kém trong thanh khoản của Hy Lạp đã làm lộ ra thiếu sót mang tính cơ cấu trong chính sách tiền tệ chung: Các quốc gia thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung. Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối với khu vực đồng tiền chung bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau. Nếu các chính phủ cắt giảm chi tiêu để trở về mức quy định trong Hiệp ước Maastricht thì điều đó đồng nghĩa với việc làm tiêu tan những nỗ lực vực dậy nền kinh tế và làm tăng thất nghiệp, từ đó khởi động quá trình giảm phát trên phạm vi toàn Châu Âu. Nếu để các chính phủ tự ý quyết định mức thâm hụt ngân sách và công nợ của họ, Hiệp ước Maastricht có nguy cơ tan vỡ. Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định. Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Thật vậy, Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và 18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%. Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ này tại Mỹ, Nhật, Canada lần lượt là 28,2%; 27,4%; 33,4%. Để có nguồn thu lớn, EU đã xây dựng một biểu thuế suất cao hơn. Thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ và Hàn Quốc khoảng 10%; tại Nhật và Canada là 5%. Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên đường của hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Lợi thế trong thu hút nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị tác động Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công. Sự yếu kém trong điều hành đất nước của chính phủ Hy Lạp Gia nhập khu vực đồng tiền chung euro năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Đáng buồn thay, đây lại là nguyên nhân khiến quốc gia này lâm vào cảnh “chúa chổm”. Tham nhũng, hối lộ, trốn thuế có hệ thống. Hy Lạp hiện đang là một trong những nước có nạn tham nhũng nghiêm trọng nhất EU. Dựa theo CPI (chỉ số nhận thức tham nhũng) của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), Hy Lạp đứng cuối cùng, sau cả Rumani và Bungari. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp được ước tính vào khoảng 8% GDP. Nói cách khác, khoảng hơn 50% số thâm hụt ngân sách năm 2009 của Hy Lạp là do tham nhũng mà ra. Và, điều thật nghịch lý, theo các nhà phân tích, chính sự trợ giúp của EU trong những năm qua lại là “đòn bẩy” khiến tham nhũng ở Hy Lạp tăng lên nhanh chóng. Chỉ tính trong vòng 3 thập kỷ kể từ khi Hy Lạp gia nhập EU, nước này đã nhận được tổng cộng khoảng 300 tỷ euro tiền trợ cấp từ EU. Vậy mà, họ vẫn lâm vào cuộc khủng hoảng nợ trầm trọng. Còn EU, lại một lần nữa phải “bơm tiền”. Nhiều năm qua, các quan chức, chính trị gia ở Hy Lạp liên tục phải từ chức vì liên quan đến tham nhũng, nhận hối lộ. Nhưng, cho đến nay, rất ít người bị xét xử và kết án vì tội danh tham nhũng. Chính điều này đã khiến người ta nghĩ đến một điều luật “bất thành văn”, đó là việc, các quan chức tham nhũng, nhận hối lộ rất “mạnh tay”, nhưng đến khi bị cơ quan điều tra phát hiện thì lại rất nhanh và “mạnh mồm” tuyên bố từ chức, và sẽ không bị đưa ra xét xử nữa. Trong các bảng xếp hạng của TI về tham nhũng, cả ở EU hay chỉ trong nhóm sử dụng đồng tiền chung châu Âu thì Hy Lạp luôn “đội sổ”. Theo tính toán, hàng năm, nạn tham nhũng ở Hy Lạp đã lấy đi khoảng 10% GDP của nước này. Còn người dân Hy Lạp, vì tham nhũng lan tràn trong giới công chức, quan chức nên đã được coi như là những người “hối lộ chuyên nghiệp”. Người dân Hy Lạp đã phải hối lộ để thi lấy bằng lái xe, để được cấp giấy phép xây nhà, để khám chữa bệnh, để giành được những hợp đồng trong kinh doanh, đặc biệt khi đối tác là các cơ quan Nhà nước… Những điều này luôn là thực tế trong xã hội Hy Lạp. Bản thân Thủ tướng George Papandreou, khi nhậm chức hồi năm ngoái đã phải thừa nhận: “Tham nhũng ở Hy Lạp là có hệ thống” và cam kết “sẽ kiên quyết loại trừ tệ nạn này”. Thế nhưng, sẽ rất khó để “tiêu diệt” tham nhũng, vì một khi đã trở thành “hệ thống” cũng có nghĩa là nó đã được “bảo vệ”, kể cả trong những quy định của luật pháp. Đơn cử, người nhận hối lộ, khi bị tố cáo sẽ không phải ra trước tòa đối chứng, trong khi đó, người tố cáo sẽ phải đối chất trước tòa về các bằng chứng cáo buộc. Điều này hiển nhiên sẽ khiến những người tố cáo tham nhũng, hối lộ nản chí. Do tham nhũng, nhận hối lộ diễn ra tràn lan ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội nên việc hối lộ cũng được coi là… bình thường khi người dân quan niệm, đi hối lộ để “đôi bên cùng có lợi”. Chỉ tính riêng trong năm 2009, tổng số tiền mà người dân Hy Lạp dùng để hối lộ lên đến 800 triệu euro, trong đó phần lớn tập trung ở lĩnh vực y tế và xây dựng cơ bản. Tất nhiên, người dân thực hiện hành vi hối lộ để đạt được những mục đích của riêng họ. Còn giới kinh doanh, bên cạnh việc hối lộ để có được những hợp đồng “béo bở”  cũng tiến hành đút lót để trốn thuế, gia tăng thu nhập cho cá nhân và Cty. Theo giới nghiên cứu, tỷ lệ thất thoát thuế ở Hy Lạp thuộc hàng lớn nhất châu Âu và cũng là con số khá cao trên thế giới khi hàng năm, số tiền thuế thất thoát lên tới 25%. Chính Bộ Tài chính Hy Lạp cũng khẳng định, ở một nước phát triển như Hy Lạp, với dân số hơn 11 triệu người nhưng lại chỉ có khoảng 15 nghìn người kê khai có mức thu nhập trên 100.000 euro/năm, quả là có… vấn đề. Hy Lạp có một hệ thống tài khóa khá ọp ẹp, trong đó nền kinh tế ngầm ước tính có quy mô tương đương 20-30% nền kinh tế chính thức, và giá trị trốn thuế hàng năm có thể lên tới 30 tỷ USD. Chỉ cần thu đủ thuế là đủ sức đưa thu chi của Athens trở lại với trạng thái cân bằng, nhưng biện pháp đơn giản này xem ra vô cùng khó thực hiện Để vực dậy nền kinh tế đang bên bờ vực của cuộc khủng hoảng nợ, bên cạnh việc nhận hỗ trợ 110 tỷ euro, Chính phủ Hy Lạp cũng đưa ra những cam kết nhằm cắt giảm chi tiêu công, tăng nguồn thu cho Nhà nước thông qua biện pháp tăng nhiều loại thuế. Chưa hết, Chính phủ của Thủ tướng George Papandreou còn đề nghị người dân giúp đỡ đất nước, đơn giản bằng cách giữ lại mọi hóa đơn mua hàng, để các cơ quan chức năng có thể đối chiếu, nếu cần thiết và truy thu thuế từ các cơ sở kinh doanh nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách, từng bước đưa đất nước thoát khỏi khó khăn. Chi tiêu công “siêu thoáng” Tham nhũng, trốn thuế là những tệ nạn khiến Hy Lạp ngày càng nghèo hơn so với các nước trong EU, khiến nước này lâm vào cảnh nợ nần quốc tế chồng chất. Thế nhưng, việc Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ còn có sự “góp phần” không nhỏ của việc chi tiêu công quỹ “siêu thoáng” cũng như những bộ máy công quyền không ngừng “lớn mạnh” về số lượng, nhưng chất lượng, hiệu quả công việc lại giảm đi rất nhiều. Chi quỹ lương: Quỹ lương của khối dịch vụ công tại Hy Lạp đã tăng gấp đôi trong vòng 10 năm qua. Trong khi đó, nguồn thu không được cải thiện sau hàng loạt biện pháp cắt giảm thuế để kích thích đầu tư. Thỏa thuận tài trợ 110 tỉ euro chung của IMF và khối Liên hiệp châu Âu cho Hy Lạp có chỉ ra rằng trong năm trước ngoài số tiền dùng trả lãi vay, có đến 75% phần chi còn lại của ngân sách Chính phủ Hy Lạp là để duy trì một mức lương và phúc lợi xã hội cao. Như nghiên cứu của Kaufmann dự đoán, tham nhũng không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động. Thế vận hội Athens 2004 là một cơ hội không thể nào tốt hơn để Hy Lạp gia tăng các dự án đồ sộ của mình và tiếp tục đi vay nợ thoải mái vì mục tiêu Thế vận hội. Theo một nguồn tin từ Bộ Tài chính Hy Lạp, trong năm 2009, Bộ này đã tuyển dụng tổng cộng khoảng 27.000 công chức mới, nhưng số công chức chỉ đến công sở “ngồi chơi xơi nước” chiếm tới 1/3. Rõ ràng, ngân sách quốc gia Hy Lạp đang phải oằn mình gánh chịu một lượng công chức khổng lồ mà không có cách nào giảm tải được bởi trong Hiến pháp nước này có điều khoản cấm việc sa thải công chức Nhà nước. Tính đến năm 2009, lượng công chức ở Hy Lạp chiếm tới 1/4 số người làm công ăn lương ở nước này. Số lượng nhiều là thế, nhưng những người được gọi là “công chức Nhà nước”, dù làm ít hay nhiều, vẫn được hưởng mức lương khá cao so với mức lương bình quân ở những khu vực khác. Chỉ tính tiền lương thu nhập chính (chưa tính tiền thưởng, tiền hỗ trợ), sau khi trừ đi các khoản, bình quân 1 công chức lĩnh được 1.350 euro/tháng. Trong khi đó, bình quân mỗi tháng, người làm công ăn lương ở các khu vực kinh doanh ngoài Nhà nước chỉ được lĩnh khoảng 750 euro. Lương bình quân đã cao, việc thì không nhiều, thế nhưng, hầu hết công chức ở Hy Lạp đều được thưởng thêm vào dịp cuối năm. Ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tùy thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của từng năm, người làm công ăn lương sẽ được thưởng thêm khoảng 1 tháng lương (còn gọi là “tháng lương thứ 13”). Thế nhưng, với các công chức Nhà nước, con số 13 với họ chẳng có ý nghĩa gì, có thể vì họ cho đó là “số xấu” (theo quan niệm của người châu Âu) hoặc cũng có thể vì đó là con số “hơi nhỏ”. Bởi ở Hy Lạp, đã thành lệ, hàng năm các công chức thường được nhận tối thiểu là 14 tháng lương. Cá biệt, có năm, công chức còn được lĩnh tới 16 tháng lương. Như vậy, lương bình quân đã cao, thưởng cũng nhiều, trong khi việc làm thì ít, lại không có nguy cơ bị sa thải nên 2 chữ “công chức” luôn là mơ ước của rất nhiều người trong độ tuổi đi làm. Tất nhiên, hậu quả của “công chức” là ngân sách Hy Lạp năm nào cũng bị bội chi. Thâm hụt ngân sách liên tục tăng cao. Và, đến năm 2009, nó đạt đến mức 12,7% (theo quy định của EU, mức thâm hụt ngân sách ở các nước thành viên không được quá 3%). Với mức thâm hụt lớn như vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi tổng số nợ quốc gia của Hy Lạp lên tới con số 300 tỷ euro vào năm 2009. Số nợ này được coi là “khủng”, vì nó tương đương với 113,4% GDP một năm của Hy Lạp. Con số này không chỉ làm Chính phủ Hy Lạp lo ngại mà ngay cả EU cũng phải vội vã tìm cách trợ giúp để cứu vãn nền kinh tế Hy Lạp, tránh một sự phá sản Nhà nước có thể ảnh hưởng dây chuyền tới tất cả các nước thành viên trong EU. Mức lương cao ở Hy Lạp không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách, nó còn làm cho tính cạnh tranh của nền kinh tế nước này yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi hơn 0,8 đô la Mỹ lên đến 1 euro đổi 1,6 đô la trong suốt giai đoạn từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu đi, và hệ quả tất yếu là một cán cân thương mại thâm hụt triền miên. Chi phí nhân công cao và tham nhũng tràn lan cũng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo báo cáo tư vấn của IMF, trong cán cân thanh toán của Hy Lạp thì phần đóng góp của FDI trong năm 2008 chỉ là khoảng 1,7 tỉ euro trong số hơn 35 tỉ euro thặng dư của cán cân này. Một phần đáng kể đóng góp vào cân đối tài khoản vốn và tài chính năm 2008 của Hy Lạp đến từ đầu tư gián tiếp, mà có lẽ việc phát hành trái phiếu chính phủ bán cho nhà đầu tư nước ngoài chiếm phần không nhỏ. Như vậy, có thể thấy cấu trúc cán cân thanh toán của Hy Lạp không hề cân bằng, với phần lớn thâm hụt trên tài khoản vãng lai phải bù đắp bằng nguồn vốn đầu tư gián tiếp chứ không phải vốn đầu tư trực tiếp, nghĩa là Hy Lạp gần như hoàn toàn kỳ vọng vào bong bóng giá cổ phiếu và các khoản vay nước ngoài để thu hút ngoại tệ bù đắp cho tài khoản vãng lai. Khi bong bóng cổ phiếu vỡ và khi không thể vay thêm tiền, nước này đứng trước rủi ro vỡ nợ lớn (Hy Lạp không thể phá giá đồng tiền để đẩy xuất khẩu lên nhằm cải thiện tình hình vì họ đang dùng đồng tiền chung euro. Chi xây dựng cơ sở hạ tầng: Sử dụng vốn bất hợp lý và lãng phí. Dễ dàng hút vốn đầu tư nước ngoài, trong gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ ơ-rô. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Nhưng điều này không xảy ra, nhà chức trách dường như “ngủ quên” trên núi tiền có được nhờ vay nợ. Nói đúng hơn, Chính phủ Hy Lạp chỉ biết chi tiêu (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) chứ hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ. Một ví dụ dễ thấy nhất là công tác tổ chức Thế vận hội Olympic Athens 2004, một thế vận hội hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử. Chi 12 tỷ euro (cao hơn tới 10 tỷ so với dự kiến) nhưng không cho phép bất cứ một biển hiệu quảng cáo nào được xuất hiện trên đường phố, Chính phủ Hy Lạp đã khiến ngân sách quốc gia năm 2004 thâm hụt tới 6,1% (so với GDP) trong khi giới hạn mà khối EU cho phép là 3%. Cơ cấu vốn vay bất hợp lý: chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn Một điều đáng chú ý là sự chi tiêu lãng phí của Chính phủ Hy Lạp lại dựa trên cơ cấu nợ bất hợp lý, khi mà hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp là 108,1, khoản nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính phủ vào ngày 19-5-2010. Khi các khoản vay ngắn hạn chưa phát huy được hiệu quả thì chính phủ lại lo trả nợ. Điều này càng làm gia tăng áp lực nợ lên chính phủ. Những tác động tiêu cực tới khối đồng tiều chung Châu Âu Hy Lạp có nền kinh tế nhỏ so với đa số các nước khác trong khu vực đồng tiền chung châu Âu với GDP chỉ chừng 300 tỷ USD (so với 11.000 tỷ USD của cả khối và 16.000 tỷ USD của tất cả 27 nước trong Liên minh châu Âu), tức là chỉ chiếm khoảng 3% GDP của 16 nước thành viên khu vực đồng euro. Nhưng chính sự bất cẩn trong chi tiêu của nền kinh tế nhỏ ấy lại làm điêu đứng các nước "đại gia" trong khối, đe dọa nền kinh tế các nước thành viên và ảnh hưởng không nhỏ tới tính ổn định và thậm chí số phận của đơn vị tiền tệ châu Âu, tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán Châu Âu và thị trường tài chính toàn cầu. Tác động đến nền kinh tế Ảnh hưởng xấu tới tình hình các nước trong khu vực Trước tiên có thể thấy cuộc khủng hoảng Hy Lạp là một trong những nguyên nhân khiến cho sự phục hồi kinh tế của khu vực đồng tiền chung châu âu chậm hơn và khá khiêm tốn . Ngân khố quốc gia cạn kiệt, Hy Lạp không có khả năng trả số nợ nước ngoài lên tới 581,68 tỷ USD chiếm 170,5% GDP, trong đó nợ khu vực EU là 236 tỷ gồm: nợ Pháp 75 tỷ, Đức 45tỷ, Anh 15 tỷ, thiếu các ngân hàng Bồ Đào Nha 10 tỷ, Tây Ban Nha 86 tỷ. S&P cảnh báo rằng, những người nắm giữ trái phiếu do chính phủ Hy Lạp phát hành có thể sẽ bị mất tới 50% số tiền thậm chí những quốc gia nắm giữ số lượng lớn trái phiếu Hy Lạp như Pháp, Đức, Thụy Sĩ đứng trước nguy cơ mất trắng nếu hy lạp vỡ nợ. Điều này gây ra ảnh hưởng xấu tới ngân sách các nước chủ nợ trong bối cảnh khủng hoảng nợ Hy lạp đang bắt đầu lây lan sang các nước trong khu vực cũng đang ngập trong nợ công và tình trạng thâm hụt ngân sách ở mức đáng báo động. Bảng Số liệu về thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách năm 2009 của EU. Đơn vị tính: tỷ lệ % GDP Sở dĩ có ý kiến cho rằng tình hình khủng hoảng tại Hy Lạp sẽ lây lan rất nghiêm trọng vì nhiều người tin rằng khu vực đồng tiền chung châu Âu đang có một mối liên quan mật thiết giữa các thành viên, rắc rối ở Hy Lạp sẽ mở màn cho những cú sốc khác về nợ tại một số quốc gia nữa như Ireland, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha - những quốc gia chịu tác động nặng nề từ khủng hoảng tài chính. Một trong những đặc điểm nợ của các nước trong khu vực đồng euro là qui mô nợ lẫn nhau rất lớn, các món nợ chồng chéo lẫn nhau. Hiện nay, tổng số nợ công trong khu vực đồng euro khoảng 7062 tỷ euro, trong đó khoản nợ của Hy Lạp chiếm 4%. Ngay chính các nước chủ nợ của Hy Lạp cũng thiếu lẫn nhau dẫn đến tình trạng chủ nợ và con nợ nhập nhằng nhau. Khối nợ của Hy Lạp chưa thấm vào đâu so với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha – hai quốc gia cũng đang trên bờ khủng hoảng. Tây Ban Nha nợ tổng cộng 1100 tỷ đô la Mỹ, tức hơn 4 lần món nợ của Hy Lạp, bao gồm 238 tỷ 238 tỉ với Đức, 220 tỉ với Pháp và 114 tỉ với Anh. Nước này đang có tỷ lệ thất nghiệp là 20% và có nền kinh tế gần như yếu nhất châu lục. Bồ Đào Nha nợ tổng cộng 286 tỉ đô la Mỹ, trong đó một phần ba là nợ Tây Ban Nha (86 tỉ), rồi đến nợ Đức 47 tỉ, Pháp 45 tỉ và Anh 24 tỉ; nhưng Tây Ban Nha cũng nợ chéo 28 tỉ. Hy Lạp cũng nợ Bồ Đào Nha gần 10 tỉ. Ngoài ra cũng đáng để ý là Ý có món nợ lớn tới 1.400 tỉ đô la Mỹ và Ireland nợ 867 tỉ đô la Mỹ, và cả hai đều mang nợ lớn với ba nước đã kể là Đức, Pháp và Anh. Đáng nói là, ngay cả những quốc gia đầu tàu vốn là chỗ dựa vững chắc cho cả khu vực như Pháp và Đức giờ đây cũng đang đứng trước nguy cơ bị tàn phá bởi bão nợ công. Rủi ro nằm ở hệ thống ngân hàng hai nước này cũng cao hơn bất kỳ hệ thống nhà băng thuộc quốc gia nào khác. Nguyên do xuất phát từ những món vay nợ chồng chéo giữa các quốc gia trong khu vực. Nguy cơ leo thang và lan rộng của khủng hoảng nợ công ở khu vực này khiến các ngân hàng Pháp và Đức có thể sẽ không thu hồi đủ số tiền mà họ đã cho vay. Tính tới thời điểm này, số nợ khó đòi của các ngân hàng Pháp và Đức đã lên tới gần 1.000 tỷ USD. "Đối tác" vay nợ không ai khác chính là Tây Ban Nha, Hy Lạp, Bồ Đào Nha... Theo dự báo của ủy ban Châu Âu, tổng thâm hụt ngân sách trong khu vực đồng euro năm 2010 sẽ tăng 6,6% GDP so với 6,3% năm 2009. Thâm hụt ngân sách ở các nước này luôn ở mức cao trong những năm gần đây, thêm vào đó là những khoản nợ khó đòi và gánh nặng lớn từ gói cứu trợ 80 tỷ euro cho Hy Lạp khiến nguồn lực cho những chính sách tài khóa ít đi. Cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp như một đòn cảnh tỉnh đối với các quốc gia có tỷ lệ nợ công cao, đang đứng trên bờ vực khủng hoảng nợ. Vì thế, ngay lập tức, các chính phủ các nước áp dụng các biện pháp thắt chặt chi tiêu, thắt lưng buộc bụng nhằm giảm thâm hụt ngân sách như tăng tuổi về hưu, tăng thuế, đóng băng tiền lương hưu của những người từng làm trong lĩnh vực nhà nước… để tránh trở thành quân bài domino tiếp theo. Trong tháng 5, Italy đã đưa ra chương trình cắt giảm ngân sách 24,8 tỷ Euro trong năm 2011 và năm 2012, nhằm đưa thâm hụt ngân sách từ 5

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhunghoangnohylap.doc
Tài liệu liên quan