MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH
VÀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 2
I. KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH 2
I.1. KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH 2
I.2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH. 2
I.3. ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH 4
II. TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 5
II.1. TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 5
II.2. ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 5
PHẦN II: THỰC TIỄN VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC
VỀ VẤN ĐỀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 10
II.1. THỰC TẾ Ở CÁC NƯỚC 10
II.2. KINH NGHIỆM Ở CÁC NƯỚC 10
II.3. BÀI HỌC RÚT RA 13
PHẦN III: THỰC TẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 15
III.1. THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM 15
III.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 16
III.3. CÁC GIẢI PHÁP TRONG TƯƠNG LAI. 18
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4700 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kiềm chế tài chính - Tự do hóa tài chính, tự do hóa tài chính ở các nước và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cận với các loại hình dịch vụ một cách nhanh nhất. Việc mở cửa thị trường tài chính tại các nước này cũng đồng thời góp phần củng cố lại các tổ chức trung gian tài chính và tạo nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư thông qua việc nâng cao hiệu quả quản lý và giảm thiểu rủi ro. Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở hầu hết các nước cũng góp phần thúc đẩy Chính phủ các nước chủ nhà cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi cách thức can thiệp vào thị trường đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của Chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng sở dĩ tự do hoá tài chính có tác động tích cực đến nền kinh tế chính là nhờ tác động lợi thế của kinh tế quy mô do vậy các tổ chức tài chính có thể hạ giá thành phục vụ. Bên cạnh đó việc loại bỏ yếu tố độc quyền tăng cường sự cạnh tranh là nhân tố có tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn.
Một nghiên cứu ở Mỹ nhằm xem xét tác động của cải cách trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng mở của thị trường vào những năm 1970 và 1980 cho thấy việc cải cách đó đã góp phần làm tăng trưởng khoảng 0,5 đến 1,2% tổng sản phẩm quốc nội trong khoảng thời gian 10 năm sau khi cải cách được thực hiện.
Năm 1997 Bộ trưởng ngân khố Mỹ - Rober E. Rubin đưa ra kế hoạch nhằm hiện đại hoá hệ thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi ích của kế hoạch dựa trên những tính toán thực tế như sau:
· Thời gian trước đây khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, người tiêu dùng đã được hưởng những lợi ích đáng kể. Năm 1995 giới tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đô la vào các hoạt động bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và môi giới chứng khoán. Giả sử rằng do kết quả cạnh tranh của kế hoạch hiện đại hoá hoạt động dịch vụ tài chính mà chi phí dịch vụ đối với người tiêu dùng có thể giảm đi 1% thì cũng đã tiết kiệm được khoảng 3 tỷ đô la một năm. Tuy nhiên dựa trên những cơ sở thực tế tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn có thể đạt đến mức 5%, tức là vào khoảng 15 tỷ đô la một năm - một con số hoàn toàn không nhỏ đối với nền kinh tế.
Người ta tiến hành nghiên cứu tương tự như vậy đối với Châu Âu và Châu Mỹ cũng chỉ ra rằng ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí nâng cao lợi nhuận khoảng từ 20 đến 50% thông qua việc nâng cao hiệu quả của các loại dịch vụ được cung cấp. Các cơ quan quản lý và kiểm soát ngân hàng quốc gia cũng có thể nâng cao hiệu quả với mức độ tương tự do phát huy lợi thế của kinh tế quy mô trong hoạt động chi trả và thanh toán.
Tóm lại ưu điểm lớn nhất của tự do hoá tài chính là tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong mọi thị trường. Đó là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường chuyển giao công nghệ và tạo môi trường thay đổi chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó tăng cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường có thể xảy ra trên bình diện quốc tế tạo đà thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Bên cạnh những ưu điểm của tự do hoá tài chính thì nó còn tồn tại một số nhược điểm nhỏ:
Một là, tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hoá tài chính được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế hoặc có thể không đủ điều kiện tiên quyết. Khủng hoảng nợ Mexico cùng với một số nước kém phát triển đầu thập kỷ 80 và cơn bão khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á hiện nay đã đặt ra những thách thức to lớn cho hệ thống tài chính thế giới. Sự vỡ nợ của một loạt các ngân hàng trong quá khứ và mới đây đã dẫn đến một sự sụp đổ lòng tin đối với hệ thống ngân hàng quốc tế. Nó trở thành nỗi ám ảnh đối với các nước. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hoá tài chính khoảng 5 năm. Do vậy nhiều người cho rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí nhiều Chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả của tự do hoá tài chính. Trớ trêu thay nhận định này dường như được minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra ở Argentina, Barazil, Chile trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mexico năm 1994-1995, và Thái Lan năm 1997. Những cuộc khủng hoảng như vậy đà làm cho Chính phủ các nước Đông Nam Á tỏ ra thận trọng khi cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự do hoá tài khoản vốn. Tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu thì việc mở cửa thị trường tài chính bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài chính ngân hàng. Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá tài chính có chăng chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính sách tài chính vĩ mô vón dĩ đã tiềm ẩn và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn dắt đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hướng mở cửa đã diễn ra ở những nước này thực chất không gây cản trở hoặc làm phương hại đến lợi ích thực thụ mà chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi.
Các nhà nghiên cứu đã xác định nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng trên thế giới là: sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt động thương mại, tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất, sự bùng nổ của hoạt động cho vay, sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt sự chuẩn bị chưa kỹ để tiến hành mở cửa và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của những cải cách tài chính.
Vậy tự do hoá tài chính chỉ làm tăng thêm khả năng gây khủng hoảng tài chính còn nguyên nhân sâu sa của cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đường lối cải cách.
Hai là, Làm phương hại mục tiêu chiến lược của quốc gia vì tài chính thường coi là công cụ quản lý chiến lược và lĩnh vực đặc biệt vẫn được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát khống chế và điều chỉnh thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại. Hơn nữa việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như: lừa đảo, phá sản, đổ vỡ,... gây thiệt hại đến lợi ích tiêu dùng ngăn cản sự phát triển lành mạnh của một quốc gia.
Tuy nhiên theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu sự thâm nhập của các tổ chức tài chính nước ngoài có thể đưa đến những lợi ích đáng kể (như đã đề cập ở trên). Hơn nữa những nhược điểm của tự do hoá tài chính có thể khống chế hoặc hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính nội địa được cải thiện đáng kể trước khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu nó được trợ giúp bởi một chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một trình tự mở cửa hợp lý. Như vậy việc có tận dụng được những lợi ích tiềm năng đó với một chi phí thấp hay không hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối cải tổ của chính các nước theo đuổi tự do hoá tài chính.
Trên thực tế có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt của tổ chức tài chính nước ngoài làm phương hại và phá huỷ sự an toàn của hệ thống tài chính của một nước. Sự có mặt của tổ chức tài chính nước ngoài thực chất lại làm tăng thêm sự đa dạng của hệ thống tài chính và do đó làm tăng thêm tính ổn định cần có. Hơn nữa sự hiệu quả của chính sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào chính sách tỷ giá và chính sách di chuyển vốn của nước chủ nhà chứ không phụ thuộc vào sự có mặt hay không của các tổ chức tài chính nước ngoài.
Tuy tự do hoá tài chính cũng có những nhược điểm nhưng tiến tới tự do hoá tài chính vẫn là con đường phải đi và là một cách lựa chọn có khoa học bởi cái gì cũng có mặt trái và mặt phải. Ở đây tự do hoá tài chính có rất nhiều ưu điểm và những nhược điểm thì có thể khắc phục được (như đã phân tích ở trên). Như vậy tiến tới tự do hoá tài chính là xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới.
PHẦN II
THỰC TIỄN VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
II.1. THỰC TẾ Ở CÁC NƯỚC
Nhiều nước cả phát triển và đang phát triển đã thực hiện các bước để tự do hoá tài chính trong thập kỷ vừa qua. Lãi suất đã được tự do hoá ở Achentina, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Neu Zealand, Nigeria, Philippines, Srilanka, Mỹ,... Ở những nước khác như Thái Lan hay Nam Tư trần lãi suất được quản lý mềm dẻo hơn trước đây. Một vài nước như Chile và Hàn Quốc đã tư nhân hoá các ngân hàng thương mại của mình, Achentina, Chile, Pakistan và Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm các chương trình tín dụng có chỉ đạo của họ và việc trợ cấp lãi suất đã được giảm hoặc xoá bỏ hẳn ở Hàn Quốc và Philippines. Và từ đầu những năm 80 chế độ tỷ giá của các nước đang phát triển đã có những thay đổi cơ bản theo hướng mềm dẻo hơn. Thực vậy theo thống kê của IMF số nước đang phát triển áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định (theo hình thức khác nhau) đã liên tục giảm từ 86 nước (tương đương 86%) năm 1976 giảm xuống còn 80 nước (tương đương với 67%) năm 1986 và 55 nước (tương đương 45%) năm 1996.
Trong khi đó số nước áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi (theo những hình thức khác nhau) đó liên tục gia tăng từ 14 nước (tương đương với 14%) năm 1976 lên đến 39 nước (tương đương 32%) năm 1986 và 68 nước trong số 123 nước (tương đương với 55%) năm 1996.
II.2. KINH NGHIỆM Ở CÁC NƯỚC
Ở Châu Á: Quá trình cải cách tài chính đã được tiến hành kể từ thập kỷ 70 tiếp tục ở thập kỷ 80 và 90. Việc loại trừ kiểm soát lãi suất tiền gửi và cho vay được tiến hành ở Singapore (1975), ở Malaysia (1978) ở Hàn Quốc (1988), Đài Loan (1989) ở Indonesia (1983). Một số ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước được tư nhân hoá ở Hàn Quốc 1988, Đài Loan (1989). Các ngân hàng nước ngoài và những chi nhánh của chúng đã được phép hoạt động ở Indonesia (1988), ở Thái Lan (1988), Đài Loan (1986). Ngoài ra sự kiểm soát ngoại hối được nới lỏng các ngân hàng được phát hành các chứng chỉ tiền gửi và các công cụ khác để huy động vốn. Cải cách tài chính ở Châu Á đã đem lại kết quả là sự tích luỹ tài chính diễn ra một cách có trật tự và khá ổn định. Sự tăng trưởng liên tục được duy trì kể từ đầu thập kỷ 80 ở Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và kể cả một số nước thành viên ASEAN - Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines trước khi xảy ra khủng hoảng.
Ở Hàn Quốc, quá trình tự do hoá tiến hành một chương trình cải cách kinh tế thành công khá ngoạn mục. Tuy nó cũng gặp phải những khó khăn như luồng tài chính ngắn hạn chảy vào nhiều trong năm 1966 dẫn đến một sự bất ổn định và gây lạm phát. Chương trình cải cách của Hàn Quốc bao gồm cải cách thương mại và cơ chế tỉ giá (tự do hoá nhập khẩu và thống nhất tiền tệ) với "một sự phá giá rộng lớn một lần và cho tất cả" gắn liền với một thay đổi lớn trong hệ thống ngân sách. Cơ chế lãi suất có kiểm soát được điều chỉnh tăng tới mức tạo ra lãi suất thực dương. Kết quả là: giá cả trong nước ổn định, nền kinh tế có được sự khởi đầu của con đường phát triển bền vững.
Ở Trung Quốc, Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979 nhưng thực sự vào năm 1984 khi hệ thống ngân hàng tách thành hai cấp. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Ngân hàng thương mại khi đó xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh giữa các ngân hàng và các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập và hoạt động ở Trung Quốc. Nhìn chung cho đến nay hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn bị Chính phủ khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động còn rất hạn chế thể hiện:
Thứ nhất, Hệ thống ngân hàng.
Bốn ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước kiểm soát trên 80% thị phần và thực hiện việc phân phối tín dụng dựa trên kế hoạch tín dụng của trung ương. Các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay ngầm nhiều hơn hoạt động cho vay chính thức. Còn các ngân hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc biệt. Hiện tại ở Trung Quốc có vào khoảng 540 văn phòng đại diện, 130 chi nhánh 6 liên doanh và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên chỉ có 9 ngân hàng được phép kinh doanh bằng nhân dân tệ và chỉ được thực hiện tại Thượng Hải và Quảng Châu. Trong trương lai những hạn chế của các ngân hàng nước ngoài có thể được nới lỏng về mọi mặt.
Thứ hai, Thị trường bảo hiểm.
Nó còn nhỏ bé và thống trị bởi các công ty bảo hiểm Nhà nước. Công ty nước ngoài muốn được cấp phép hoạt động đầy đủ phải chờ ba năm thẩm định.
Thứ ba, Thị trường chứng khoán.
Nó chưa phát triển mạnh. Các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không được phép thành lập công ty con hoặc chi nhánh mà tồn tại dưới dạng liên doanh.
Tóm lại yếu tố cạnh tranh trong các hoạt động dịch vụ tài chính chưa phát triển thực sự và có lẽ đây là một trong những nguyên nhân chính khiến hệ thống tài chính của Trung Quốc vẫn còn mang nặng dấu ấn "kế hoạch hoá" và hiệu quả hoạt động thấp khả năng cạnh tranh kém. Trung Quốc cần có thời gian và những cải cách mạnh mẽ hơn trước khi thực hiện việc tự do hoá theo những cam kết khi gia nhập WTO.
Ở Châu Âu, như Thổ Nhĩ Kỳ, New Zealand, Hy Lạp, Bồ Đào Nhà,... việc tự do hoá tài chính phát triển sớm hơn và khá thành công.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, trong quá trình cải cách thâm hụt ngân sách Chính phủ giảm trong những năm 1980 - 1982. Chính phủ không tự do hoá các luồng vốn trong giai đoạn 1980 đến 1982 và vì vậy đã tránh được một số rắc rối phổ biến, tỷ lệ lạm phát hàng năm được tính bằng thay đổi về chỉ số giá bán buôn đã giảm từ hơn 100% năm 1980 xuống 25% năm 1982. Tuy nhiên những thay đổi kinh tế vĩ mô đã làm ảnh hưởng đến một số công ty gây suy thoái trong hệ thống ngân hàng. Việc quản lý ngân hàng yếu kém cho nên các cú sốc từ bên ngoài, điều chỉnh cơ cấu và lãi suất cao bất thường đã biến những khó khăn này thành khủng hoảng tài chính.
Ở New Zealand, trước 1984 sự can thiệp của Chính phủ vào khu vực tài chính là rất lớn nhưng sau đó Chính phủ đã đưa ra một chiến lược mới theo hướng thị trường. Một chương trình toàn diện gồm các cải cách cơ cấu tìm cách thúc đẩy tăng trưởng và chấn chỉnh lại sự mất cân bằng cán cân thanh toán bằng cách tăng cường vai trò của các lực lượng thị trường trong nền kinh tế, trong khu vực tài chính Chính phủ đã xóa bỏ mọi kiểm soát lãi suất và phân phối tín dụng, thả nổi tỷ giá hối đoái đưa vào những hình thức đấu thầu trên cơ sở thị trường khi bán chứng khoán chính phủ và thiết lập một hệ thống kiểm soát tiền tệ mới.
Để thúc đẩy cạnh tranh giữa các tô rchức tài chính, Chính phủ khuyến khích việc tham gia của các ngân hàng mới bất kể nước nào và mở rộng quyền giao dịch bằng ngoại tệ cho những tổ chức ngoài khu vực ngân hàng. Các biện pháp kiểm soát vốn nước ngoài được xoá bỏ nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động của thị trường ngoại hối. Chương trình tự do hoá được thực hiện cùng với việc tăng cường năng lực giám sát kết quả cho thấy cạnh tranh tăng lên.
Ở Bồ Đào Nha, cải cách tài chính bao gồm cắt giảm đáng kể các chương trình tín dụng có chỉ đạo, chương trình tự do hoá rộng lớn mặc dầu còn lâu mới hoàn thành.
- Về lãi suất và những nỗ lực phát triển các thị trường vốn và tiền tệ.
Các nước ở Mỹ latinh tiến hành tự do hoá tài chính bao gồm hai yếu tố: Loại trừ mức trần của lãi suất, mở cửa tài chính với thế giới bằng cách làm cho các giao dịch về tài chính quốc tế không bị lệ thuộc vào các giới hạn của Chính phủ. Quá trình thay đổi này diễn ra một cách nhanh chóng và quyết liệt nhưng điều quan trọng là nó được tiến hành trong sự hiện diện của các chính sách kinh tế thiếu đồng bộ và thiếu vững chắc ở những phạm vi khác nhau. Với một môi trường lạm phát cao không ổn định tỉ giá không phản ánh đúng giá trị thực của đồng nội tệ, thiếu sự kiểm soát đối với hệ thống ngân hàng hoặc là đã tạo ra động cơ cho vốn chạy trốn ồ ạt ra khỏi đất nước để tránh khỏi thuế lạm phát và những rủi ro do lạm phát gây ra (như Chile) hoặc ngược lại làm cho đất nước bị tràn ngập bởi những luồng vốn khổng lồ từ nước ngoài vào như Achentina và Uruguay bởi lãi suất thực cao một cách không bình thường. Và kết quả đổi mới dưới những điều kiện này đã trở thành thảm hoạ về tài chính.
Các cải cách tài chính ở khu vực Carsahara Châu Phi đã và đang được tiến hành ở một số nước như Coted'Ivoine, Ghana, Guine, Maclagasca, Nigeria và Tanzania,... Mục tiêu là nhằm cải tổ lại tổ chức hoàn thiện các quy định điều tiết và chuẩn bị theo hướng dựa nhiều hơn vào thị trường. Các nền kinh tế kế hoạch tập trung cũng đã thực hiện một số cải cách tài chính có liên quan đến tăng lãi suất và phần nào tăng sự cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ.
II.3. BÀI HỌC RÚT RA
Từ những kinh nghiệm thực tế của các nước trong quá trình tự do hoá tài chính chúng ta rút ra bài học chính là:
Thứ nhất, Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển mà cụ thể là tự do hoá lãi suất là mạo hiểm trong điều kiện lạm phát cao hay mất cân đối kinh tế vĩ mô lớn liên quan đến việc đầu tư kém hiệu quả và các món nợ khổng lồ của các tập đoàn tư nhân và khu vực công. Tiết kiệm hạn chế và vấn đề nợ quá hạn có thể đặt các thị trường tài chính dưới sự căng thẳng hơn và đẩy lãi suất thực tế lên cao. Trong điều kiện Chính phủ tái diễn việc tài trợ các khoản thâm hụt tài chính trong nước, các trái phiếu phải bảo đảm khả năng sinh lời cao mới thu hút được tiết kiệm tư nhân. Nếu lặp lại việc in tiền sẽ phải đối diện với vấn đề lạm phát và sự mất lòng tin của khu vực kinh tế tư nhân do giá trị tài sản tài chính bị xói mòn.
Trái lại các nước có nền kinh tế vĩ mô khá ổn định có thể tránh được những nguy cơ lãi suất thực cao, những giao động trong tỷ giá hối đoái thực và tình trạng không trả được nợ của các hãng và ngân hàng. Vì thế một số nước mà có tình trạng kinh tế vĩ mô không ổn định nên lựa chọn thực hiện tự do hoá từ từ, họ sẽ vẫn duy trì được một số kiểm soát nhất định đối với lãi suất và luồng vốn đồng thời khuyến khích cạnh tranh mạnh hơn và điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với các điều kiện của thị trường.
Bài học thứ hai: Do mức độ tập trung ngân hàng cao và phương thức sở hữu nội bộ nên hoạt động tài chính kém hiệu quả. Cần kích thích sự cạnh tranh giữa các ngân hàng bằng cách thực hiện tổng hợp các phương thức như tự do hoá lãi suất, tư nhân hoá các ngân hàng, thành lập các thị trường trái phiếu và thúc đẩy các hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, dỡ bỏ hàng rào cản đối với ngân hàng mới gia nhập để bảo đảm cạnh tranh bình đẳng và tối thiểu hoá rủi ro.
Bài học thứ ba cần quan tâm đến các vấn đề như rủi ro thiếu thông tin hoặc chia cắt thị trường tín dụng ảnh hưởng đến cơ chế phân phối tín dụng theo hướng bất lợi cho các nông trại vừa và nhỏ. Ngoài ra cũng phải quan tâm giải quyết các vấn đề nợ quá hạn, khủng hoảng tài chính do thiếu các quy định quản lý và thực hiện quy định đó kém hiệu quả. Không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động ngân hàng.
Bài học thứ tư: Vấn đề nợ trong nước của khu vực công và những món nợ khó đòi của hệ thống ngân hàng là rào cản cho sự thành công của tự do hoá tài chính. Tình trạng vỡ nợ hàng loạt của các ngân hàng và người đi vay gây chi phí cao cho các cơ quan tiền tệ gây thiệt hại cho ngân hàng trung ương làm tăng thêm nợ công cộng trong nước và không kiểm soát được tiền tệ. Giải quyết vấn đề nợ đó là hết sức cần thiết đối với hệ thống tài chính. Các hướng dẫn thích hợp đối với vấn đề nợ quá hạn nên được hình thành như là một phần của hệ thống các qui định.
Bài học thứ năm trong khi giá cả bị lệch lạc do các biện pháp bảo hộ hoặc kiểm soát giá tự do hoá tài chính có thể không cải thiện được vấn đề phân phối nguồn lực một trong những mục tiêu của nó. Trên thực tế xoá bỏ điều tiết có thể làm vấn đề tồi tệ hơn như ở Chilê tỷ giá hối đoái tăng quá cao đầu thập kỷ 80 dẫn đến đầu tư quá mức vào bất động sản khi cải cách tài chính thì nguồn lực đổ vào khu vực này càng cao khủng hoảng nổ ra khu vực này bị thiệt hại nặng nề nhất. Vì vậy điều chỉnh tỷ giá hối đoái cải cách thương mại và chính sách doanh nghiệp hoá Nhà nước nên thực hiện trước hoặc cùng với tự do hoá tài chính.
Bài học thứ sáu sự can thiệp trực tiếp vào khu vực tài chính phải được thay thế bởi một hệ thống luật pháp và quy định phù hợp và giảm can thiệp.
PHẦN III
THỰC TẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
III.1. THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật. Năm 1986 Việt Nam đã thi hành chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc mở cửa. Xu thế ngày càng được khẳng định bằng một loạt các mối quan hệ mới được thiết lập như tham gia ASEAN (1995), APEC (1998) ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (2000),... Hệ thống tài chính cũng có những cải tổ căn bản theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và mở cửa từng bước. Song song với nó là hệ thống ngân hàng của nước ta thực sự có những thay đổi căn bản vào những năm đầu của thập kỷ 90 khi được tách làm 2 cấp. Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại với hai chức năng riêng biệt. Sự cải tổ này đã đem đến những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực làm cho hệ thống ngân hàng ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường hơn. Về lãi suất cũng từng bước thay đổi để thích hợp với những thay đổi của đất nước.
Trước 1989: Lãi suất thực âm.
1989-1990: Bắt đầu thực hiện chính sách lãi suất dương.
1992-1996: Lãi suất thực dương, có trần lãi suất tín dụng, quy định lãi suất tiền gửi.
1996-1997: Lãi suất thực dương, xoá bỏ quy định lãi suất tiền gửi. Áp dụng chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi là 0,35%.
1998: Xoá bỏ chênh lệch lãi suất.
1999: Hợp nhất lãi suất cho vay ngắn hạn và dài hạn.
2000-5/2001: Xoá bỏ kiểm soát lãi suất tiết kiệm ngoại tệ. Thực hiện chính sách lãi suất cơ bản.
Về tỷ giá cũng có những điều chỉnh:
Trước năm 1989: Tỷ giá cố định.
1989-1992: Tỷ giá thả nổi.
1992 đến nay: Tỷ giá thả nổi có quản lý.
Thị trường bảo hiểm của Việt Nam có phần mở rộng hơn đối với hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Chính sách mở cửa được thực hiện bắt đầu năm 1993 khi Chính phủ ban hành Chỉ thị 100/CP cho phép các nhà bảo hiểm nước ngoài được phép đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức liên doanh, mở chi nhánh, hoặc 100% sở hữu vốn nước ngoài. Hiện giờ có 16 công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới được thành lập 7/2000. Nó mới sơ khai và chưa ổn định, song nó là một mốc son đánh giá cho quá trình cải cách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài và mở rộng hoạt động của thị trường tài chính trong nước.
Đánh giá được thực tế của mình Việt Nam đang thực hiện bước trung gian để tiến tới tự do hoá tài chính đó là tài chính hạn chế để dần dần mở cửa nền kinh tế nói chung và dịch vụ tài chính nói riêng để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tài chính hạn chế là bước quá độ tiến tới thị trường hoá các quan hệ và hoạt động tài chính. Đó là một chính sách hợp lý và khoa học bởi vì trong điều kiện hiện nay Nhà nước và Ngân hàng Trung ương không thể thả nổi hoàn toàn đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại, cũng như các tổ chức tín dụng. Chừng nào mà chúng ta còn thiếu nhiều các điều kiện về luật pháp và các công cụ tài chính điều tiết gián tiếp, Nhà nước và Ngân hàng Trung ương còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong điều hành và quản lý các hoạt động và các quan hệ tài chính của một nền kinh tế thị trường vốn dĩ rất phức tạp thì khi đó các biện pháp và chính sách quản lý và điều tiết trực tiếp vẫn là rất cần thiết có ý nghĩa quan trọng để tránh những mất ổn định và tình trạng hoạt động một cách vô chính phủ. Trong điều kiện nền kinh tế đang còn nghèo nàn lạc hậu như vậy thì việc thực hiện tự do hoá lãi suất, thả nổi hoàn toàn tỷ giá hối đoái và các hoạt động tài chính nói chung ngay lập tức sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động tài chính không lành mạnh phát triển, phá vỡ sự ổn định và phát triển hiện nay. Bài học thực tế về sự buông lỏng quản lý đối với hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân vào những năm 1990-1991 và nghiêm trọng hơn là sự chủ quan trong quản lý các hoạt động cung cấp vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại trong những năm qua đã là những thiệt hại không nhỏ về kinh tế và xã hội.
III.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Thực tế đã cho thấy tự do hoá tài chính là một con đường rất gian khổ và lâu dài. Hơn nữa mức độ thành công tự do hoá tài chính của các quốc gia khác nhau, thậm chí còn gây hậu quả tiêu cực. Bất kỳ sự nhảy vọt nào cũng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kiềm chế tài chính - Tự do hóa tài chính, tự do hóa tài chính ở các nước & bài học đối với Việt Nam.doc